Thứ Năm, 26 tháng 7, 2007

"Girls of Riyadh" spurs rush of Saudi novels - Reuters


Riyadh, 23/7 (Reuters)
Trong hai năm vừa qua, nền văn học Arập Saudi đang chứng kiến một sự bùng nổ kể từ sau thành công của tác phẩm “Girls of Riyadh” (tạm dịch Những cô gái ở Riyadh), một tiểu thuyết đả phá sự cấm kỵ. Trong tháng Bảy này, bản tiếng Anh tác phẩm trên đã bắt đầu được phát hành rộng rãi trên khắp thế giới.
Sự thấu thị của Rajaa Alsanea về thế giới thầm kín của những người phụ nữ Arập Saudi với nỗi thất vọng của họ trong tình yêu, đã tạo ra một cơn bão tại quốc gia Hồi giáo thủ cựu này - nơi cuốn sách mới đầu được xuất bản tại Beirut, bị cấm phát hành dù hiện nay vẫn có thể dễ dàng tìm thấy tại đây.
Thê nhưng một cách đầy ấn tượng, số lượng tác phẩm văn học Arab Saudi đã tăng gấp đôi trong năm 2006, với phân nửa là của các nữ tác giả, và nhiều người trong ngành xuất bản tin rằng sự tăng tiến này một phần nhờ vào cuốn tiểu thuyết của Alsanea, tập trung khắc hoạ cuộc sống của bốn người phụ nữ xuất thân giàu có muốn vượt qua những rào cản quy tắc và những cấm kỵ trong tình dục, hôn nhân và vị thế gia đình để giữ lấy những người đàn ông họ yêu.
Theo Hassan al-Neimy - một nhà văn chuyên viết truyện ngắn, người đứng đầu văn nhóm Tiếng Arập và Hewar cho đối thoại, “Tôi nhìn nhận “Girls of Riyadh” như là một bước ngoặt đối với độc giả Arập Saudi. Sự táo bạo của cuốn sách đã khuyến khích giới nữ viết cùng một phong cách, về những trải nghiệm thường ngày của họ”.
Al-Neimy cho biết trong năm 2006, đã có khoảng 50 tiểu thuyết được xuất bản tại Arập Saudi, so với 26 cuốn năm 2005. Hiện khó có thể thống kê chính xác bởi một số tác phẩm hiện được xuất bản nước ngoài.
Hiện tại tác phẩm của các tiểu thuyết gia Arập Saudi xuất bản trong nước thường phải chịu sự kiểm duyệt trước của Bộ Thông tin. Mặc dù thực tế chỉ có một số ít cuốn sách bị cấm phát hành, song nhiều nhà văn thường xuyên chọn các nhà xuất bản nước ngoài để phát hành tác phẩm của mình. Điều này đã gây khó khăn cho nhiều nhà sách tư nhân trong nước khi đưa ra quyết định có nên nhập các tác phẩm đó hay không.
Hiện tượng này đang nói lên một điều rằng tại Arập Saudi, nền văn học hiện đại nước này bị đặt dưới ánh mắt nghi ngờ của giới tăng lữ đầy quyền lực trong một cộng đồng tôn giáo khổ hạnh với sự bất bình đẳng giới nghiêm khắc.
Nữ giới tại đây lớn lên trong bao bọc - đối diện với những rào cản lớn như bị cấm giao thiệp công khai với đàn ông lạ, không được lái xe ô tô và bị gia đình sắp đặt hôn nhân. Do đó thế giới riêng tư của họ chính là mảnh đất màu mỡ cho văn học.
Tập trung vào tình dục
Theo các nhà phê bình, đề tài về những mối quan hệ tình dục đang lấn át trong tác phẩm của các nhà văn mới, với những tiêu đề giật gân như “al-Hobb fil Saudiyya”, trong tiếng Arab có nghĩa là “Yêu tại Saudi” và “Fosouq”, nghĩa là “Sự cám dỗ”.
Một ví dụ là “al-Akharun” (tạm dịch Những người khác) của nữ nhà văn sử dụng bút hiệu Siba al-Harz. Tác phẩm này đã thu hút sự chú ý bởi khía cạnh tối tăm khi đề cập tới vấn đề đồng tình nữ, tội lỗi và sự cách ly hoá trong cộng đồng thiểu số Hồi giáo dòng Shi’ite tại Arập Saudi, cũng như văn phòng thuần ngôn ngữ Arập cổ điển.
Al-Harz đã miêu tả cuốn sách này như là “một câu trả lời dài với nỗi đau đớn và khinh thị” trong một cuộc phỏng vấn với một tờ báo tiếng Arab.
Lảng tránh việc so sánh với lối viết thoáng đạt của Alsanea, al-Harz cho biết cô đã nghĩ việc đăng tải tác phẩm của mình trên Internet trước khi một nhà xuất bản tại Libăng, từng phát hành tác phẩm bằng tiếng Arập của Alsanea, nhận xuất bản. Hiện tác phẩm này vẫn bị cấm tại Arập Saudi.
Nhà xuất bản của cô, Saqi Books, cho rằng “al-Akharun” là một trong những tiểu thuyết xuất sắc nhất của thế hệ các nhà văn nữ trẻ tại Arập Saudi.
Đại diện Văn phòng Saqi Books tại London, Hassan Ramandan, nhận xét về hiện tượng văn học mới của Arập Saudi: “Chúng tôi mang đến cơ hội cho nhiều nhà văn Arập Saudi trẻ, đặc biệt các tác giả nữ. Đó hoàn toàn là một hiện tượng mới. Mặc dù đây không phải là động thái cần thiết xét theo hướng phát triển đúng đắn dựa trên phẩm chất văn chương, song nó là một cách để giao thiệp với thế giới bên ngoài”. Hassan cũng lưu ý rằng chất lượng tác phẩm của hiện tượng này không phải lúc nào cũng cao.
Nhà văn al-Neimy cho rằng việc đề cập tới chủ đề dục tính cấm kỵ thực chất là quay lại với những cuốn tiểu thuyết của các nhà văn Arab Saudi trong thập niên 1990, như Turki al-Hamad, Abdo Khal và Ghazi Algosaibi. Những tác phẩm này đã từng làm các tác giả của chúng trở thành những kẻ đáng ghét nhất đối với tín đồ Hồi giáo tại Arập Saudi mặc dù chúng chỉ có ý nghĩa khi đề cập tới khía cạnh đời sống chính trị tại nước này.
Tuy nhiên, nhà văn al-Neimy nhận định chính kể từ thời điểm cuộc cách mạng truyền thông đó xuất hiện đã tạo ra một động lực mới trong việc biểu đạt văn chương. Từ năm 1990 đến nay, dân số Arập Saudi đã tăng gấp đôi, với 17 triệu người, và các cuộc thống kê chính thức cho thấy khoảng 60% trong số đó dưới 21 tuổi.
Ông al-Neimy nói: “Xã hội hiện nay đamg rộng mở với những đổi thay bên ngoài. Đây là một thế hệ với đôi mắt mở để nhận biết những thay đối nhanh chóng và cuốn tiểu thuyết này là một sự phản chiếu những đổi thay xã hội đó”.
Chuyển ngữ sang tiếng Anh
Theo Abdallah Hassan - biên tập viên dự án thuộc Đại học Mỹ của tờ Cairo Press, nơi vừa xuất xuất bản trong năm nay tác phẩm của nhà văn người Arập Saudi Yousef al-Mohimeed, một số ít tiểu thuyết của Arập Saudi đã được chuyển ngữ cho độc giả trên thế giới, song điều này có thể đang được thay đổi.
Hassan nói: “Những nhà xuất bản nước ngoài đang quan tâm đến thể loại tiểu thuyết viễn tưởng của người Arập, đặc biệt từ Irắc và Arập Saudi. Điều đó đang mở ra một cánh cửa đối với thế giới Arập”. Tuy nhiên, Hassan cũng lưu ý rằng nền văn học Arập nhìn chung là “khó bán”.
Mối quan tâm trên được kích thích từ cuộc xâm lược và chiếm đóng Irắc do Mỹ phát động hồi năm 2003 và vụ tấn công khủng bố kinh hoàng nước Mỹ ngày 11/9/2001 được 19 người Arập thực hiện, trong đó có 15 người quốc tịch Arập Saudi.
Hassan cho rằng sự thành công kể từ năm 2003 với tác phẩm “The Yacoubian Building” bằng tiếng Arập, tiếng Anh và tiếng Pháp của tiểu thuyết gia Ai Cập Alaa Al Aswany, đã cho thấy nền văn học tiếng Arập có thể hấp dẫn một lượng độc giả lớn.
Trong khi số bản phát hành của “Girls of Riyadh” hiện vào khoảng vài chục nghìn cuốn, thì đến nay “The Yacoubian Building” đã bán được hàng trăm nghìn bản.
Tuy nhiên, một số người cảnh báo rằng “kỹ nghệ” viết văn của Arập Saudi đang trong nguy cơ rơi vào sáo rỗng rập khuôn.
Người Arab Saudi và người phương Tây đang hốt bạc với sự bí ẩn này, Abdul-Aziz al-Khedr đã viết như vậy trên một diễn đàn có địa chỉ http://www.saudidebate.com/. Anh nói: “Nhiều nhà xuất bản (đang) rõ ràng bị hấp dẫn bởi lợi nhuận lớn và nhiều tiểu thuyết gia Arập Saudi có thể đột ngột thu hút sự quan tâm lớn của dư luận. Tất cả các tác phẩm có tiêu-đề-hấp-dẫn-thị trường này đã vượt qua tất cả những doanh số bán trong quá khứ, biến những thứ được coi là hiếm hoi trong nền văn học trở thành cái gì đó lớn hơn”./.


Thứ Tư, 25 tháng 7, 2007

Bài thứ 20 trong tập 20 bài thơ tình của Pablo Neruda

XX

Tôi có thể viết những câu thơ buồn nhất đêm nay.

Ví dụ như viết: "Đêm đầy sao,
và chúng run rẩy, xanh biếc, những ngôi sao, ở nơi xa."

Làn gió đêm xoay tung trên bầu trời và ca hát.
Tôi có thể viết những câu thơ buồn nhất đêm nay.
Tôi đã yêu nàng, đôi khi nàng cũng đã yêu tôi.

Những đêm như thế tôi đã ôm nàng trong vòng tay.
Tôi đã hôn nàng say đắm dưới bầu trời vô tận.

Nàng đã yêu tôi, đôi khi tôi cũng đã yêu nàng.
Làm sao tôi không yêu được đôi mắt to, êm dịu của nàng.

Tôi có thể viết những câu thơ buồn nhất đêm nay.
Để nghĩ mình chẳng có nàng, để cảm thấy mình đã mất nàng.

Lắng nghe đêm mênh mông, mênh mông hơn vì vắng nàng.
Những câu thơ rơi vào hồn tôi như sương trên cỏ.

Có gì đâu nếu tôi không thể giữ nàng lại.
Đêm đầy sao và cô ấy chẳng ở bên tôi.

Tất cả chỉ thế thôi. Ai đó đang hát ở xa. Ở xa.
Và hồn tôi không thoả mãn vì đánh mất nàng.

Để lại gần nàng, ánh mắt tôi tìm kiếm nàng.
Tim tôi tìm kiếm, và nàng chẳng ở bên tôi.

Đêm nay vẫn như những đêm xưa đang truội trắng vẫn những cây này.
Chúng ta, thời xa xưa ấy, chúng ta chẳng còn là một.

Tôi không còn yêu nàng, chắc chắn, thế nhưng tôi đã từng yêu nàng biết mấy.
Tiếng tôi đã cố tìm làn gió nhẹ để nàng nghe thấy.

Của người khác. Nàng sẽ thuộc về người khác. Như những nụ hôn trước của tôi.
Tiếng nàng, tấm thân ngời sáng của nàng. Đôi mắt mênh mông của nàng.

Tôi không còn yêu nàng, chắc chắn, thế nhưng có lẽ tôi vẫn yêu nàng.
Tình yêu thì ngắn ngủi, lãng quên thì dài lâu.

Bởi những đêm như đêm nay, tôi đã ôm nàng trong vòng tay.
Và hồn tôi không thoả mãn vì đánh mất nàng.

Dù đây là nỗi đau cuối cùng mà nàng khiến tôi phải chịu đựng,
và đây là những vần thơ cuối cùng tôi viết tặng nàng.

(Pablo Neruda – 20 bài thơ tình)
(dịch từ 2 bản dịch tiếng Anh đăng trên www.poemhunter.com)

Thứ Ba, 24 tháng 7, 2007

One year after surgery, Castro, Cuba still in question (AFP)

Fidel Castro
Raul Castro

Một năm sau phẫu thuật, Castro, Cuba vẫn nằm trong dấu hỏi

Havana, 23/7/2007(AFP)-
Một năm sau khi tiến hành phẫu thuật, Fidel Castro vẫn đang trong quá trình hồi phục và người dân Cuba vẫn tự hỏi liệu nhà cách mạng kỳ cựu này có lấy lại quyền lãnh đạo mà ông đã trao cho người em trai Raul hay không.
Bạn bè của lãnh tụ cộng sản cho biết sự hồi phục của ông tiến triển rất tốt, tuy nhiên sự bí mật bao quanh ông đã gây ra nhiều đồn đoán về tình hình sức khoẻ và tương lai chính trị của Fidel.
Các quan chức chính phủ nhiều lần tuyên bố rằng Fidel sẽ vẫn làm việc trở lại, tuy nhiên quá trình hồi phục kéo dài đang làm tăng những nghi ngại cho rằng Castro, sẽ bước sang tuổi 81 giữa tháng Tám này, không thể hoàn toàn nắm quyền trở lại.
Sau cuộc bầu cử địa phương vào tháng Mười và tổng tuyển cử vào năm sau, mọi việc sẽ trở nên rõ ràng ít nhất là ai sẽ chính thức nắm quyền. Các đại biểu Quốc hội được bầu hồi tháng Tư sẽ lựa chọn 31 thành viên Hội đồng Nhà nước, những người sau đó sẽ lựa chọn tiếp nhà lãnh đạo Nhà nước nhiệm kỳ tới của Cuba. Liệu họ sẽ chọn một người trong số anh em nhà Castro hay một người trong số các quan chức trẻ hàng đầu Cuba hay không là điều mà mọi người đang đánh cược trong hoàn cảnh hiện nay, tuy nhiên các nhà phân tích tin rằng quyết định trên chắc chắn sẽ phản ảnh nguyện vọng của vị Chủ tịch đang đau yếu.
Trong số các quan chức có tiềm năng trở thành Chủ tịch là Carlos Lage, 54 tuổi, một trong bốn Phó Chủ tịch Cuba, được coi là một người thực tế và nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của các quan chức cộng sản hàng đầu. Quyền Chủ tịch Raul Castro, 75 tuổi, đã nhắc lại nhiều lần rằng hiện tại là thời điểm để trao quyền lực cho thế hệ trẻ hơn.
Sau quãng thời gian liên tục nắm quyền kể từ năm 1959, Fidel Castro đã “tạm thời” trao quyền cho người em trai và là số hai trong một thời gian dài vào ngày 31/7/2006, 4 ngày sau khi trải qua ca phẫu thuật đường ruột phức tạp. Kể từ đó ông liên lục phải chịu nhiều ca phẫu thuật khác, do những biến chứng sau ca phẫu thuật trước đó. Nhà lãnh đạo kỳ cựu đã lui vào ẩn dật, ngoại trừ những lần xuất hiện được ghi hình, trong đó có vài lần với người bạn, đồng minh và đồng cấp Venezuela Hugo Chavez.
Là một nhà hùng biện thiên phú nổi tiếng với những bài diễn văn hoàn thiện và dài dòng, Castro hiện nói chậm và nhẹ nhàng, và viết suy nghĩ của mình trong những bài xã luận mà phần lớn tập trung vào việc chỉ trích Mỹ, đất nước mà ông đã thách thức trong gần 5 thập kỷ. Tuy nhiên ông không đưa ra bất kỳ dự định nào về tương lai chính trị của mình. Ngoài ra, có rất ít sự thay đổi tại Cuba, một trong những nhà nước cộng sản cuối cùng, kể từ sự ẩn dật của Castro tại một bệnh viện ở địa điểm bí mật.
Trái ngược với những đồn đoán ban đầu của các kẻ thù của Castro, sự chuyển giao quyền lực cho người em Castro không dẫn tới sự phản kháng trong nhân dân Cuba đòi hỏi các cuộc cải cách mau lẹ, và công việc vẫn tiếp tục như thường lệ.
Nhiều nhà phân tích cho rằng Cuba đã vượt qua thành công một kỳ sát hạch quan trọng trong quá trình chuyển giao quyền lực được sắp đặt bởi Fidel Castro và đã được lên kế hoạch từ lâu trước cuộc phẫu thuật của ông. Để đảm bảo sự ổn định của đất nước, vị quyền Chủ tịch và các quan chức cấp cao trong Đảng tham gia một số cuộc thảo luận công khai hiếm hoi về một vài lĩnh vực yếu kém chủ yếu của Cuba như ngành giao thông vận tải và nhà ở.
Sau khi sống phần lớn cuộc đời dưới cái bóng của người anh trai, Raul Castro được đánh giá chung là thực dụng hơn trong 2 người. Ông đề xuất đối thoại với Mỹ, song Washington khăng khăng cho rằng điều này chỉ có thể xảy ra nếu chế độ hiện tại thực hiện cuộc cải cách dân chủ. Trong khi vị quyền Chủ tịch nhận được sự phê bình của dư luận, ông cũng xác định rõ ràng rằng chính chủ cộng sản sẽ vẫn giữ niềm tin vào lý tưởng cách mạng của mình.
Các nhà phân tích chính trị cho rằng ít có khả năng xảy ra bất cứ sự thay đổi lớn nào sớm được ra trong thời gian này. “Raul không phải là Gorbachov hay Đặng Tiểu Bình”, nhà phân tích chính trị người Mỹ gốc Cuba Jaime Suchlicki viết trong báo cáo “Đánh giá quốc tế Harvard”. Ông cho biết “Khi người anh còn sống, thậm chí kể cả khi ông ấy (Fidel) ra đi, thì dường như ông ta (Raul) cũng sẽ không tiến hành các cuộc cải cách chính trị và kinh tế lớn nào”./.

Một số diễn biến quan trọng liên quan đến tình trạng sức khoẻ của Fidel Castro trong năm qua:
Ngày 27/7/2006: Castro tiến hành phẫu thuật khẩn cấp. Một bản tuyên bố nhân danh ông cho biết lý do là “một vấn đề đưòng ruột cấp tính, chảy máu liên tục”.
Ngày 31/7/2006: Ông chuyển giao quyền lực cho em trai, Raul Castro, 75 tuổi.
Ngày 13/8/2006: Fidel Castro 80 tuổi, xuất hiện trên truyền hình khoẻ mạnh dù nằm trên giường. Trong năm sau, các phương tiện truyền thông nhà nước chiếu những cảnh Castro nói chuyện với những người khách quý tới thăm hỏi.
Từ ngày 13 đến 18/9/2006: Castro không tham dự hội nghị cấp cao Phong trào không liên kết mà Cuba làm chủ nhà.
Ngày 28/10/2006: Fidel Castro xuất hiện trở lại trên truyền hình để bác bỏ thông tin cho rằng ông sắp chết.
Ngày 29/3/2007: Các phương tiện truyền thông địa phương đăng xã luận của Castro chỉ trích kế hoạch phát triển nhiên liệu ethanol của Mỹ. Kể từ đó ông viết hàng chục bài xã luận khác.
Ngày 20/4/2007: Castro gặp gỡ một quan chức Trung Quốc cấp cao.
Ngày 1/5/2007: Castro không xuất hiện tại lễ diễu hành nhân ngày Quốc tế lao động 1/5 của Đảng Cộng sản Cuba.
Ngày 24/5/2007: Castro tiết lộ đã trải qua rất nhiều ca phẫu thuật kể từ ca phẫu thuật đầu tiên và cho biết một số ca phẫu thuật đã không thành công.
Ngày 5/6/2007: Trong cuộc phỏng vấn đầu tiên sau phẫu thuật, Castro cho đài truyền hình Nhà nước biết về sự hồi phục của ông, và khẳng định đó không phải là “bí mật nhà nước”.

Thứ Hai, 23 tháng 7, 2007

Secrecy and US. satellite reconnaissance 1958-1976

Bí mật và chương trình do thám vệ tinh Mỹ giai đoạn 1958-1976
(biên tập bởi Jeffrey Richelson, đăng trên www.nsarchive.org)

Trong báo cáo công bố ngày 2/5/1946 “Phác thảo sơ bộ về một thử nghiệm tàu vũ trụ vòng quanh thế giới”, Tập đoàn sản xuất máy bay Douglas đã thử nghiệm giá trị tiềm năng của các vệ tinh nhân tạo với mục đích khoa học và quân sự. Trong đó, mục tiêu quân sự tiềm năng của nó bao gồm hướng dẫn tên lửa, vận chuyển vũ khí, thăm dò thời tiết, thông tin liên lạc, tấn công quân sự, và “giám sát”. Chưa đầy 9 năm sau, ngày 15/3/1955, Không lực Mỹ đã ban hành Quy chế hoạt động chung số 80, theo đó thiết lập một quy chế ưu tiên cao đối với hoạt động vệ tinh do thám tiên tiến.
5 năm sau đó, chương trình vệ tinh do thám Mỹ đã được triển khai theo nhiều hướng. Chương trình của Không lực Mỹ đầu tiên được đặt tên là “Hệ thống do thám tiên tiến” (còn được biết đến với cái tên “Pied Piper”), và sau đó là “Canh gác” (SENTRY). Trách nhiệm quản lý “Canh gác” được chuyển từ Không lực Mỹ sang Cơ quan quản lý các dự án nghiên cứu tiên tiến (ARPA), được thành lập vào ngày 7/2/1958, và sau đó lại chuyển về Không lực Mỹ vào cuối năm 1959, thời điểm chương trình trên được đổi tên thành SAMOS. Chương trình đó sẽ, trong nhiều thời điểm, bao gồm việc lọc hình ảnh điện tử, những hình ảnh hồi phục tự nhiên trong một capsule[1],và mang các thiết bị tình báo điện tử - cái sau cùng được hướng chủ yếu vào hệ thống radar của Soviet và Trung Quốc.
Mối quan ngại về những chậm trễ trong việc thực thi các mục tiêu chủ yếu của SAMOS - sự phát triển và hoạt động của một vệ tinh lọc thông tin điện tử - đã dẫn đến việc Tổng thống Dwight D.Eisenhower thông qua (cũng vào ngày 7/2/1958), một chương trình do Cục tình báo trung ương (CIA) quản lý để phát triển vệ tinh do thám có thể ghi nhận hình ảnh bằng phim về chuyển chúng về một capsule. Chương trình trên, sau đó sớm được đặt tên là “Hào quang” (CORONA), nằm dưới quyền quản lý của Richard Bissell của CIA, trợ lý đặc biệt về kế hoạch và phát triển của DCI[2], người cũng là trưởng nhóm chương trình U-2.
Chương trình này sẽ không tồn tại cho đến trước năm 1960 khi những nỗ lực khám phá không gian của Mỹ với mục đích tình báo bắt đầu mang lại các kết quả tích cực. Tháng Sáu năm đó, một thiết bị chuyển tải do Phòng thí nghiệm nghiên cứu Hải quân thiết kế, dưới tên gọi “Nền tảng và sự bức xạ ngân hà” (Galactic Radiation and Background - GRAB), được phóng vào quỹ đạo với nhiệm vụ bí mật - chặn sóng của hệ thống radar Soviet. Tháng 8/1960, sứ mệnh CORONA đã đạt được thành công bước đầu, duy trì trong 1 ngày và hoạt động dưói vỏ bọc một chương trình vệ tinh khoa học giả định có tên “Người khám phá” (Discoverer), đã thu được hình ảnh về Liên Sô nhiều hơn tổng cộng 4 năm hoạt động của chương trình U-2. Cùng năm, Tổng thống Eisenhower cũng thông qua một chương trình phát triển vệ tinh có độ phân giải cao để bổ sung cho các vệ tinh CORONA, bao phủ một vùng đồng cỏ rộng lớn song chất lượng phân giải không đủ cho phép các nhà phân tích hình ảnh chắt lọc đầy đủ thông tin tình báo về những tiện nghi và vũ khí của đối phương mà họ cần. Chương trình này được đặt tên là “Bước đầu” (GAMBIT).
Những hoạt động trên được duy trì một cách bí mật nhất có thể, đặc biệt sau sự đắc cử Tổng thống của John F.Kennedy. Cả Eisenhower và Kennedy đều bị tác động bởi vụ bắn hạ thiết bị bay U-2 tháng 5/1960 bởi Francis Gary Powers - một sự kiện dẫn đến kết quả chấm dứt các sứ mệnh U-2 trên lãnh thổ Soviet. Có mối quan ngại rằng bất kỳ sự thừa nhận khả năng của Mỹ sẽ được coi như là chất xúc tác để giới lãnh đạo Soviet bước qua sự phản đối thông thường đối với chương trình do thám không gian giả tạo của Mỹ và có những áp lực quân sự và chính trị hiệu quả để can thiệp vào hệ thống vệ tinh gián điệp của người Mỹ. Vì vậy, mỗi lần sử dụng vệ tinh GRAB để phá sóng tín hiệu radar của Soviet đều phải được Tồng thống Eisenhower thông qua, giống như việc ông chấp thuận để vệ tinh U-2 bay qua lãnh thổ Soviet.
Trong năm đầu tiên tại vị, Chính quyền Kennedy đã thông qua việc thành lập Văn phòng do thám quốc gia (NRO) và Chương trình do thám quốc gia (NRP), những thực thể mà sự tồn tại của nó được đóng dấu phân loại Mật và Tối Mật. NRP gồm các chương trình do thám không lưu và vệ tinh dưới sự quản lý của CIA, Không quân và Hải quân Mỹ. Trong khi đó, NRO sẽ có chức năng là cơ quan điều khiển những chương trình trên, thẩm định các đề xuất về những hệ thống mới, thiết lập các tiêu chuẩn an ninh chung, sắp xếp việc triển khai, và cung cấp những dịch vụ và hình thức khác của việc giám sát.
15 năm sau, nước Mỹ sẽ phát triển và triển khai một số lượng vệ tinh để cung cấp hình ảnh, phá sóng radar, truyền thông, đo tự động thông số tên lửa; và tách sóng các tia hồng ngoại có thể sử dụng với mục đích tình báo. Trong suốt thời kỳ này, sự bí mật và an toàn tiếp tục trở thành một vấn đề quan ngại và sẽ kéo theo một loạt hệ luỵ khác.
Một trong những vấn đề trở nên căng thẳng vào thời điểm đó là sự xuất hiện áp lực yêu cầu giải mật những nỗ lực do thám vệ tinh của Mỹ - không chỉ riêng năm 1958 mà còn cả trong năm 1976. Một vấn đề thậm chí còn cấp thiết hơn đó là khả năng xuất hiện thái độ phản ứng quốc tế đối với chương trình do thám này. Các quan chức Mỹ đã tìm kiếm biện pháp tốt nhất để giảm nhẹ tính dễ bị tổn thương chính trị của chương trình này đối với Soviet và những phản đối của các nước khác trong việc "những kẻ do thám trên bầu trời" của Mỹ bay qua lãnh thổ của họ và chụp ảnh [hoặc chắn sóng tín hiệu từ] các cơ sở quân sự quan trọng. Liệu thừa nhận công khai hay giữ bí mật sẽ là biện pháp bảo vệ tốt nhất đối với chương trình trên hay không là chủ đề trong các bản ghi nhớ chính sách và những định đoán tình báo trong nhiều năm từ trước khi được triển khai lần đầu tiên cho đến cuối những năm 1970.
Ngoài những ghi nhớ và nghiên cứu này, các nghiên cứu khác cũng tập trung duy nhất vào Liên Sô - về sự nhận biết và thông hiểu về chương trình do thám của Mỹ, khả năng phản ứng có thể của họ nếu có sự thừa nhận công khai hoạt động chương trình trên, và sự sáng suốt (hoặc thiếu sáng suốt) về của việc những chi tiết cụ thể được tiết lộ với giới chức Soviet.
Các quan chức chính sách và tình báo Mỹ cũng đã có nhiều lựa chọn liên quan đến việc sẽ tiết lộ bao nhiêu phần về chương trình trên đối với các đồng minh cũng như bao nhiêu phần có thể chia sẻ riêng đối với một số chính phủ (đặc biệt là Anh) và NATO. Tại nhiều thời điểm, một vài quan chức cũng đã làm tăng khả năng công bố hình ảnh vệ tinh đối rộng rãi với công chúng.
Một vấn đề có liên quan khác là các biện pháp an ninh được áp dụng để bảo vệ những chi tiết về các chương trình trên và sản phẩm của chúng. Vì vậy, Bộ Quốc phòng đã ra chỉ thị thiết lập cơ chế và những thủ tục nhằm bảo vệ dữ liệu tất cả chương trình không gian quân sự như một phương tiện bảo vệ các chương trình do thám. Giới chức Mỹ đặc biệt quan tâm tới việc thiết lập, hoạt động và tác động của hệ thống an ninh riêng biệt - các hệ thống kiểm soát Tài năng-lỗ khoá (TALENT-KEYHOLE) và BYEMAN - được thành lập với mục đích bảo vệ thông tin về, hoặc sản xuất bởi, những vệ tinh do thám.
Mối quan tâm cuối cùng liên quan tới việc tiết lộ trong nội bộ về "thực tế" hoạt động do thám vệ tinh, hoặc sự cung cấp sản phẩm nào đó của nó tới một bộ phận rộng mở hơn các tổ chức và cá nhân trong Chính phủ, ở mức Mật và Tối Mật. Trong một số trường hợp, mục đích của việc này là nhằm dỡ bỏ những trở ngại đối với quá trình thực hiện các sứ mệnh của nhiều cơ quan khác. Nói cách khác nó kiềm chế những tuyên bố cá nhân không rõ ràng về các nỗ lực do thám Mỹ.
Trong thời gian này, những đề xuất tiết lộ nhiều thông tin hơn - đối với rộng rãi công chúng Mỹ hoặc chỉ trong Chính phủ - hầu hết đều gặp phải trở lực đáng kể. Sự miễn cưỡng này, thường dựa vào cuộc tranh luận về nguy cơ dẫn đến sự thay đổi nhiều hơn lợi ích trông đợi, có tính quyết định chung trong việc ngăn cản những chính sách tiết lộ thông tin tự do hơn. Do sự phản đối lớn như vậy nên việc tiết lộ về "thực tế" do thám vệ tinh Mỹ sẽ không được giải mật cho đến năm 1978./.

[1] capsule - đầu mang khí cụ khoa học của tên lửa vũ trụ (ND)
[2] DCI - Director of Central Intelligence - Giám đốc Cục tình báo trung ương Mỹ, hiện nay chức danh này đã được bãi bỏ (ND)

Communist is Alive and Well and Living in Japan - Bryan Walsh (Time magazine 22nd July)

Chủ nghĩa xã hội vẫn sống tốt ở Nhật Bản

(Đảng kỳ Đảng Cộng sản Nhật Bản (JCP)


Dễ thương như Hello Kitty, Michiko Suzuki, 19 tuổi, trông giống như bất kỳ hàng nghìn cô gái trẻ nào đang săn lùng những cửa hàng thời trang trên phố ở quận Harajuku trẻ trung của Tokyo. Tuy nhiên, khi cô sinh viên Đại học Wako ngừng việc nghiên cứu về Marx để ra đường, đó cũng là lúc cô nhận được lệnh rải truyền đơn chính trị. Đối với bạn học của cô, đảng chính trị có thể là cái gì đó mà bạn mang máy hát karaoke đến, tuy nhiên Suzuki biết rằng đó thật sự là bộ phận tiên phong cách mạng trong cuộc đấu tranh giai cấp. Bởi Suzuki là một cô nhóc cộng sản.
Gia đình Suzuki có truyền thống theo chủ nghĩa Bolshevic: Là con gái và cháu gái của các thành viên đảng Cộng sản, cô gia nhập Đảng Cộng sản Nhật Bản (JCP) năm 18 tuổi. "Tôi nghĩ rằng thật hay khi nhìn thấy [các thành viên khác] tranh luận một cách kiên quyết", Suzuki nói, cười bẽn lẽn, "Tôi thật sự thích khẩu hiệu cuối cùng đó".
Ý tưởng về cuộc sống một chiến binh đảng Cộng sản tại nền kinh tế lớn thứ hai thế giới 15 năm sau sự sụp đổ của Liên Sô có thể đem ra so sánh với việc những người lính Nhật Bản vẫn còn đang ẩn náu tại khu vực quần đảo biệt lập ở Thái Bình Dương bởi không ai nói cho họ biết rằng Thế chiến thứ hai đã kết thúc. Tuy nhiên JCP đã vượt qua sự đổ vỡ đó: hiện Đảng này có 400.000 thành viên, và nhận được 7,3% số phiếu bầu trong hầu hết những cuộc bầu cử lập pháp thời gian gần đây, năm 2005 - với 4,36 triệu phiếu.
"JCP chắc chắn là một trong những đảng Cộng sản không cầm quyền thành công nhất tại châu Á, nếu không muốn nói là trên thế giới", Lam Peng Er - nhà nghiên cứu ở Viện Đông Á thuộc Đại học quốc gia Singapore - cho biết.
Sự thành công đó bắt nguồn từ lịch sử lâu đời của đảng này tại Nhật Bản. Ra đời năm 1922 như là nhánh Nhật Bản của Quốc tế Cộng sản - liên đoàn quốc tế của các đảng theo chủ nghĩa Marxist-Leninist do Moscow thành lập, JCP nhanh chóng hoà nhập với tình hình địa phương. JCP là một trong số ít các chính đảng Nhật Bản phản đối sự trỗi dậy của giới quân phiệt nước này trong quãng thời gian trước Thế chiến thứ hai, và phải gánh chịu hậu quả nặng nề.
"JCP là chính đảng duy nhất đấu tranh chống lại cuộc chiến hung hãn trong quá khứ với sự hi sinh của nhiều đảng viên", Kazuo Shii, Chủ tịch JCP trong bộ đồ công chức, cho biết. Lập trường mang tính nguyên tắc đó đã được nhiều người Nhật Bản tôn trọng khi chiến tranh kết thúc, và theo quy định mới JCP được phép tham gia tranh cử. Tuy nhiên thành công bước đầu của JCP đã làm các quan chức Mỹ tại Nhật lo ngại về sự thâm nhập của Sô Viết, và họ có những động thái để ngăn chặn ảnh hưởng của đảng này. Trong cuộc “Thanh lọc đỏ” năm 1949, họ đã bãi nhiệm tất cả những người Cộng sản và theo cánh tả khác ra khỏi các vị trí trong chính quyền Nhật Bản, dẫn đến việc Đảng Dân chủ Tự do (LDP) chiếm ưu thế vượt trội trong nhiều thập kỷ. Tuy nhiên, JCP vẫn thành lập được một khối đối lập cánh tả đáng tin cậy cùng với Đảng những người xã hội Nhật Bản ngày càng to lớn và chính thống hơn, những người theo chủ nghĩa hoà bình kiên định và chống lại sự liên minh an ninh với Mỹ.
Dĩ nhiên, các chính đảng Cộng sản ở mọi nơi trên thế giới công nghiệp hoá này đều tuân theo một nguyên tắc tương tự dù đã trở nên không còn thích hợp trong những năm 1990. Song JCP, mặc dù đã yếu hơn thời hoàng kim của nó, vẫn là chủ đề quan trọng trong chính trường Nhật Bản.
Shii tin rằng sự độc lập nhất quán của JCP với Moscow luôn bảo đảm sự tồn tại của đảng này. Tuy nhiên, để kéo dài sự tồn tại đó JCP phải thực hiện nhiều công việc hơn với vai trò của mình trong vũ đài chính trị quốc nội Nhật Bản. Những đảng phái lớn nhất trong chính giới Nhật Bản thiếu sự định dạng và chức năng có tính kết dính và trong sạch hơn, như thiếu những liên kết lợi ích do một vài khác biệt chính trị có thể nhận thấy, và họ thu hút ít sự ủng hộ dựa trên những nền tảng ý thức hệ hơn là thông qua những mạng lưới ủng hộ cá nhân của các ứng cử viên độc lập. “Nó giống như Tammany Hall[1]”, Lam nói. Sự ủng hộ đối với những chính đảng này đang suy yếu, và càng lúc càng yếu hơn, khi ngày càng nhiều cử tri Nhật Bản thạo đời muốn có một sự lựa chọn chính trị ý nghĩa.
JCP có thể có lợi bởi vị trí thực sự về cái gì đó - “xã hội cộng sản/xã hội chủ nghĩa”, theo tuyên ngôn cộng sản. “JCP là một đảng chuyên biệt hoá cao, song nó là chính đảng duy nhất tại Nhật Bản có một tổ chức với nền tảng mạnh”, Lam nói. “Theo đó, đảng Cộng sán hầu như chắc chắn là một chính đảng hiện đại nhất tại Nhật Bản”.
Bất chấp việc chỉ có 18 trên 722 ghế tại Nghị viện, JCP thường hoạt động như là thành phần đối lập thực sự duy nhất trong đời sống chính trị thường nhật tại Tokyo. Gần như đơn độc trong các đảng phái Nhật Bản, những người Cộng sản chỉ trích kịch liệt Thủ tướng Shizo Abe và những người khác luôn tái phủ nhận vai trò của Nhật Bản trong việc ép buộc hàng chục nghìn phụ nữ châu Á trở thành gái điếm trong Thế chiến thứ hai. Các chính trị gia Cộng sản liên tục phát hiện những vụ bê bối tài chính gây thiệt hại nặng nề trong chính phủ - chúng hiện quá xa vời để tách rời quyền lực đang lúng túng trong tình trạng tham nhũng cố hữu tại Tokyo. “Chúng tôi là tổ chức giám sát, nhưng chúng tôi còn đi xa hơn thế”, Shii nói. “Tôi nghĩ rằng sự tiến bộ của JCP sẽ trở nên quan trọng đối với sự tiến bộ của đời sống chính trị Nhật Bản”.
Có thể - đây là chính đảng cấp tiến nhất trong chính trường Nhật Bản, tuy nhiên nó vẫn trung thành với Chủ nghĩa Marx. [Khi tôi hỏi với chút nghiêm túc một đảng viên Cộng sản ở độ tuổi sinh viên rằng liệu anh ta có đọc các cuốn sách kinh điển hay không, anh ta lật balô của mình và đưa ra Tập 2 trong 13 tập bản dịch tiếng Nhật cuốn Das Kapital (Tư bản)]. Và sự cố kết của JCP không có lợi cho tính linh hoạt và rộng mở - biện pháp kỷ luật Leninist vẫn được áp dụng, và khi Uỷ ban trung ương đảng ra nghị quyết về một vấn đề, mọi đảng viên phải tuyệt đối tuân theo. “Điều này làm tăng thêm tính tự động hoá đối với Nhật Bản hậu hiện đại”, Lam nói. “Tuy nhiên sự lo ngại của JCP là nếu họ bớt nghiêm khắc, đảng sẽ mất đi sự liên kết của nó”.
Thành tích của JCP sẽ không thay đổi được kết quả cuộc bầu cử lập pháp diễn ra vào tháng Bảy tới - có thể quyết định số phận của Thủ tướng Abe. Sự ủng hộ ngài Thủ tướng đã rơi xuống mức thấp kỷ lục trong những tuần gần đây do dư luận giận dữ về tình trạng quản lý yếu kém quỹ lương hưu. Song, hầu hết cử tri Nhật Bản sẽ lựa chọn LPD hoặc đảng Dân chủ đối lập, cho dù có kém hứng khởi. Tuy nhiên JCP sẽ nhận được những phiếu bầu phản kháng, và và có thể còn nhiều hơn, với sự ủng hộ của tầng lớp thanh niên Nhật Bản như Suzuki. “Tôi nghĩ bạn bè tôi và những người xung quanh tôi có nhiều khó khăn và thử thách trong việc xác định mình, cũng như ít tự tin vào bản thân”, Suzuki nói. “Tuy nhiên là một đảng viên JCP, tôi có một viễn cảnh rộng mở hơn về tương lai. Tôi biết chúng tôi có triển vọng”. Vậy ai nói rằng cuộc chiến tranh đã kết thúc thế, đồng chí?

(Bài viết trong mục Postcard from Tokyo của Bryan Walsh đăng trên tuần báo Time số ra ngày 22/7)

[1] Tammany Hall là một bộ máy chính trị của đảng Dân chủ tại Mỹ, đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát đời sống chính trị của thành phố New York giai đoạn 1790-1960. Nó thường kiểm soát các ứng cử viên và sự ủng hộ đảng Dân chủ tại Manhattan từ chiến thắng cuộc bầu cử thị trưởng của Fernando Wood năm 1854 cho đến (nhưng không bao gồm) chiến dịch tranh cử của Fiorello LaGuardia năm 1934, sau đó suy yếu dần và sụp đổ. (ND-Theo www.wikipedia.org)

Dư âm sau khi đi dự một tiệc cưới

Một bàn sáu người lạ
sáu cái bát trắng
sáu đôi đũa sạch
một đĩa sáu khúc cá rán giòn rút xương
mười hai con tôm chiên bột hơi ỉu
bốn con cua mai trần lổm ngổm bốc khói
thịt bò xốt tím tái như thịt trâu ôi
sáu chai bia Hà Nội sủi bọt tăm bong bóng rầm rì
những lời chúc tụng khách sáo nhưng cần thiết.

Câu nói hay nhất trong ngày hôm nay
"Uống beer đi em!"

Thứ Tư, 18 tháng 7, 2007

Warrior for peace - David Talbot (Time 2/7)

Trong phần lớn thời gian đương nhiệm Tổng thống, đặc biệt sau thất bại của chiến dịch xâm lược Vịnh Con lợn, John Frizgerald Kennedy bị hoài nghi có cùng quan điểm với những vị Tướng lĩnh cứng rắn thời bấy giờ ở Washington, như Tư lệnh không quân Curtis LeMay (phải).







Các cựu cố vấn của Tổng thống John F.Kennedy là Kenneth O’Donnell và Dave Powers đã đặt tên cuốn hồi ký về J.F.K năm 1972 là “Chúng ta hầu như không biết gì về ông”, mặc dù trên thực tế họ đã làm việc với Kennedy từ những ngày ông còn là một ứng viên nghị sỹ Quốc hội tại Boston. Do đó, không có gì ngạc nhiên khi sau gần nửa thế kỷ, người Mỹ vẫn đang cố tìm hiểu xem cố Tổng thống của họ thực sự là ai. Liệu ông ta có phải là một “con diều hâu” trong Chiến tranh lạnh, giống như một phần lịch sử thiết lập, tầng lớp học giả uyên thâm tại Washington và là sự kỳ vọng của cả hai đảng về một vị Tổng thống - háo hức tuyên bố về sự lãnh đạo thực chất đầy cơ bắp của ông - vốn đã tồn tại trong nhiều năm qua?). Hoặc giả ông ta là một người đi trước thời đại của mình, có viễn thị hoà bình, cố gắng tháo gỡ nút thắt vấn đề hạt nhân đang níu chặt Mỹ và Liên Sô, với phần còn lại của của thế giới?
Khi mà người Mỹ một lần nữa muốn tự tìm cho mình một cuộc chiến tranh bất tận - lần này là chống khủng bố hoặc có lẽ để chế ngự nỗi tự sợ hãi - thì câu hỏi về di sản thực sự mà Kennedy để lại dường như đặc biệt được quan tâm. Cách tốt nhất để biến nước Mỹ trở thành hoa tiêu trên thế giới nơi kẻ thù của nó dường như vừa có mặt ở mọi nơi vừa chẳng ở đâu trong cùng một thời điểm? Chúng ta có thể học được những gì từ việc Kennedy cố gắng định nghĩa lại vai trò của nước Mỹ trên thế giới và mời gọi dân chúng Mỹ trở thành một phần của sự thay đổi đó? Ai thực sự là John Fitzgerald Kennedy?
Câu hỏi rắc rối này được bắt đầu từ chính Kennedy, một chính trị gia phức tạp với những bài diễn thuyết lúc như những mũi tên được giương lên song đôi khi lại mềm mại như cành ô liu. Thông điệp dường như tương phản đó được thể hiện đầy hoa mỹ trong Diễn văn nhậm chức nổi tiếng của chính JFK. Trong khi Kennedy cam kết nước Mỹ “sẽ trả bất cứ giá nào, chấp nhận bất cứ khó khăn nào, đối mặt với bất cứ khó khăn, ủng hộ bất cử bạn bè nào, chốmg lại bất cứ kẻ thù nào để bảo vệ sự tồn tại và thành công của Tự do” - một lối hùng biện đầy hung hãn hoàn toàn tương hợp với đương kim Tổng thống George W.Bush - thì nhà lãnh đạo trẻ lại bỏ qua những sự khiêu khích thường lệ của Liên Sô lúc đó để mời mọc kẻ thù cùng “tìm kiếm hoà bình, trước khi sức mạnh huỷ diệt đen tối của khoa học nhận chìm tất cả loài người”. Thật khó có thể tưởng tượng những ông chủ Nhà Trắng hiện tại có thể đưa ra đề nghị tương tự với những kẻ thánh chiến Hồi giáo hay các nhà lãnh đạo Iran.
Ngay từ khi còn trẻ, John Kennedy đã phải trải nghiệm một cách sâu sắc sự ghê rợn của chiến tranh. “Tất cả các cuộc chiến tranh đều là ngu ngốc”, Kennedy đã viết như thế trong bức thư gửi về nhà từ chiếc tàu phóng ngư lôi tuần tiễu khi ông đang phục vụ tại mặt trận Thái Bình Dương trong Thế chiến thứ hai. Cuộc chiến đó đã làm đổ vỡ niềm tin của gia đình Kennedy. Joe, anh trai John, một phi công Hải quân, đã chết trong vụ nổ phà tại Eo biển nước Anh sau khi tình nguyện tham gia một nhiệm vụ nguy hiểm. Người chồng trẻ của chị gái John, cũng hi sinh vì chiến tranh. Trong bức thư John Kennedy gửi Claiborne Pell năm 1947, cuộc chiến đơn giản đã “phá sụp” gia đình ông. “Nó khiến bố tôi, các anh chị em tôi và tôi bị lộn ngược, nó hút tất cả khí ôxy ra khỏi những giả định thoải mái và thiển cận của chúng tôi... Bây giờ, sau tất cả những gì đã trải qua và mất mát trong cuộc chiến đó, chúng tôi cuối cùng cũng hiểu rằng không có cái gì là chắc chắn cả”.
Tuy nhiên, Kennedy và anh em của ông lại được nuôi dưỡng để trở thành những người chiến thắng bởi người bố không bao giờ biết chấp nhận thất bại. Và khi Kennedy bắt đầu chiến dịch vận động tranh cử Tổng thống năm 1960 chống lại Richard Nixon, một trong những chính trị gia “bẩn thỉu” nhất trong chính trường Mỹ, ông đã chuẩn bị tất cả mọi thứ để giành chiến thắng. Khi Chiến tranh lạnh trong giai đoạn cao trào, thậm chí Kennedy còn trở nên diều hâu hơn cả những người Cộng hoà đối lập. Kennedy hoàn toàn không có ý định trở thành một Adlai Steveson khác - người theo chủ nghĩa tự do cao cả đã dễ dàng bị khuất phục trong cuộc bầu cử với người hùng chiến tranh Dwight Eisenhower. JFK xác định sẽ không không trở thành một con người yếu đuối trong vấn đề quân sự, một bao cát tập đấm trong sự chỉ trích của đảng Cộng hoà. Do đó, ông đã đánh vào mạng sườn Nixon, cảnh báo rằng nước Mỹ đang tụt lại phía sau Nga trong cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân, và biến “khoảng cách tên lửa” trở thành một chủ đề chính trong chiến dịch tranh cử. Kennedy cũng bảo vệ cho “những chiến binh tự do” Cuba trong chiến dịch lật đổ chế độ mới của Fidel Castro. Những người theo chủ nghĩa tự do ủng hộ Kennedy, như nhà kinh tế ở Harvard John Kenneth Galbraith, đã lo ngại rằng JFK sau đó sẽ phải trả giá cho những bài hùng biện hiếu chiến trong chiến dịch tranh cử. Tuy nhiên, thái độ cứng rắn của Kennedy đã giúp ông giành được chiến thắng sít sao trong cuộc bầu cử đó.
Làm việc tới Tổng thống mới đắc cử tại tư gia Palm Beach của nhà Kennedy hồi đầu tháng 1/1961, nhà viết diễn văn Theodore Sorensen đã phải rất cố gắng để hoà trộn hai tư tưởng đối nghịch này của JFK khi hai người cùng soạn thảo Diễn văn nhậm chức Tổng thống. Ngày nay Sorensen sau khi nhìn lại quá khứ đã đưa ra nhận xét rằng, dòng quan trọng nhất trong bài diễn văn đó không phải là câu “Đừng đòi hỏi những gì đất nước có thể làm cho bạn mà hãy hỏi bạn có thể làm những gì cho đất nước” mà là câu “chỉ khi vũ khí của chúng ta thực sự đủ mạnh thì chúng ta mới chắn chắn được rằng sẽ không bao giờ phải sử dụng chúng”. Sorensen cho rằng thông điệp nhấn mạnh hoà bình này chính là “chính sách vắn tắt của Kennedy” .
Tuy nhiên những người có quan điểm cứng rắn tại Lầu Năm Góc và CIA không chỉ vui mừng trước những khuynh hướng “nhiều sức mạnh” trong thông điệp nhậm chức bay bổng của Kennedy về việc xây dựng lực lượng vũ trang hùng mạnh mà tân Tổng thống cam kết. Họ muốn triển khai lực lượng nhằm đẩy lùi sự tiến bước của chủ nghĩa Cộng sản trên toàn thế giới. Và không có đồn luỹ kẻ thù nào lại chọc tức những quan chức an ninh quốc gia này hơn Cuba của Fidel Castro, nơi chỉ cách bờ biển nước Mỹ chưa đầy 100 dặm.
Họ đã quyết định không thể sống chung với Castro. Trong những tháng tại vị cuối cùng của Tổng thống Eisenhower, CIA đã bắt đầu lên kế hoạch xâm lược hòn đảo này, tuyển mộ những kẻ Cuba lưu vong không chấp nhận chế độ mới. Theo lời một giám đốc sau này của CIA, các quan chức CIA khi đó tin chắc rằng vị Tổng thống trẻ sẽ chấp nhận kế hoạch này như “một sự đã rồi”. JFK bày tỏ sự quan ngại sâu sắc, song miễn cưỡng chấp nhận sự vượt quyền của giới quan chức tình báo cao cấp trong giai đoạn đầu nhiệm kỳ Tổng thống khi thông qua kế hoạch này. Cuộc xâm lược Vịnh Con lợn vào tháng 4/1961 đã trở thành tổn thương lớn đầu tiên trong giai đoạn cầm quyền của Kennedy.
Sau khi kế hoạch xâm lược Vịnh Con lợn được CIA giải mật năm 2005, hiện chúng ta đều biết rằng các quan chức cơ quan này đã nhận ra rằng những kẻ tham gia chiến dịch này không có cơ hội giành chiến thắng trừ phi nhận được sự yểm trợ của quân đội Mỹ. Tuy nhiên, Allen Dulles và Richard Bissell, hai quan chức hàng đầu của CIA, không bao giờ tiết lộ điều đó cho JFK. Họ nghĩ rằng vị Tổng thống trẻ sẽ nhượng bộ trước sức nóng của chiến trường và buộc phải gửi Hải quân và Không quân đến giải cứu cho những kẻ lưu vong đang bị bao vây bởi quân đội của Fidel. Tuy nhiên, Kennedy, lo ngại rằng sẽ làm trầm trọng thêm hình ảnh của Mỹ tại Mỹ Latinh như là con quỷ Yankee và Liên Sô sẽ nối lại việc tấn công Tây Đức, đã cảnh báo giới chức tình báo rằng ông sẽ không can thiệp vào vụ việc này. Khi cuộc tấn công nhanh chóng bị dập tắt tại địa điểm đổ bộ, JFK đã làm Dulles và Bissell choáng váng bởi sự từ chối hỗ trợ chiến dịch trên.
Kể từ thời điểm đó, nhiệm kỳ Tổng thống của Kennedy đã trở thành một chính phủ với những mâu thuẫn nội bộ sâu sắc.
Dulles cay đắng nghĩ Kennedy đã bị căng thẳng thần kinh và cho rằng ông bị “vây quanh bởi những kẻ đa nghi và khâm phục Castro”. Bộ Tổng tham mưu cũng bắt đầu tỏ thái độ khó chịu đối với vị tân Tổng thống. Tướng Lyman Lemnitzer, Tổng Tham mưu trưởng, cho rằng “việc bỏ rơi chiến dịch trên là hoàn toàn đáng bị khiển trách, đây gần như là một tội ác”. Đô đốc Arleigh Burke, Tư lệnh Hải quân, sau đó tức giận nói: “Kennedy là một Tổng thống rất tồi... ông ta tự cho phép mình quyền huỷ hoại đất nước này”.
Kennedy thực sự đã làm tổn thương các cố vấn an ninh quốc gia của mình. Trong khi ông đứng ra thừa nhận trách nhiệm trước công chúng về sự thất bại của chiến dịch Vịnh con lợn, thì sau lưng ông lại chỉ trích Bộ Tổng tham mưu và đặc biệt là CIA, đe doạ “đập vỡ cơ quan này thành hàng nghìn mảnh và tung tro tàn của nó theo gió”. Mặc dù JFK chưa bao giờ thực hiện lời đe doạ này, song ông đã thật sự sa thải Dulles bất chấp việc ông ta là một bậc thầy huyền thoại về nghệ thuật quản lý gián điệp, tương tự như Bissell.
Theo cuốn hồi ký “Niềm vui của những kè cùng hội cùng thuyền” của Trợ lý Tham mưu trưởng Hải quân Paul Fay, nhiều tuần sau thất bại tại Cuba, JFK dường như vẫn nổi giận. Trong một ván đấu cờ đam tại nhà Kennedy tại cảng Hyannis, bang Massachusetts, JFK nói với Fay rằng “không ai có thể buộc tôi phải làm những điều mà tôi không nghĩ rằng nó mang lại lợi ích tốt nhất cho đất nước”. "Chúng ta sẽ không thực hiện những hành động thiếu trách nhiệm chỉ bởi vì một kẻ cuồng tín nào đó muốn đặt cái gọi là niềm tự hào quốc gia lên trên lẽ phải. Anh có nghĩ rằng tôi sẽ để lương tâm mình cảm thấy phải chịu trách nhiệm về những thương tật và cái chết của các em nhỏ giống như đám trẻ con mà chúng ta nhìn thấy tại đây tối nay? Anh có nghĩ rằng tôi sẽ gây ra cuộc chạy đua hạt nhân - vì cái gì? Buộc tôi phải làm những gì mà tôi không nghĩ rằng nó thích hợp và đúng đắn? Phải, nếu anh hoặc bất kỳ ai nghĩ tôi như vậy, anh ta là kẻ điên rồ".
Điều này sẽ trở thành chủ đề chính trong nhiệm kỳ Tổng thống của Kennedy - các nỗ lực tích cực của JFK nhằm giữ nước Mỹ ổn định cân bằng trước áp lực của những cái đầu nóng ở Washington lúc nào cũng hừng hực chiến tranh. Bị kẹp giữa các nước Cộng sản như Lào, Đông Đức, Việt Nam và Mỹ Latinh với ban cố vấn an ninh quốc gia của ông, Kennedy đã rất nhiều lần tìm cách lảng tránh việc phát động một cuộc chiến tranh. Trong mỗi cuộc khủng hoảng, ông tùy cơ đưa ra một chiến lược - kết hợp lối hùng biện lúc thô bạo lúc mềm dẻo với chiến thuật ngoại giao "cửa sau" hung hãn" - để tìm kiếm một giải pháp hòa bình.
Kennedy không bao giờ còn tin tưởng tướng lĩnh và các trùm tình báo của ông sau thất bại năm 1961 tại Cuba nữa, và ông trở thành một bậc thầy trong việc làm chệch hướng nhóm quân sự. Sử gia Arthur Schlesinger Jr. tưởng nhớ lại “sau sự kiện Vịnh con lợn, Kennedy coi khinh Bộ tham mưu”. “Tôi nhớ khi đến văn phòng của ông vào mùa xuân năm 1961, ở đó ông ta vẫy vẫy bức điện tín của Tướng Lemnitzer, người sau đó đến Lào trong một đợt thanh sát. Và Kennedy nói, “Nếu cái này không phải dành cho Vịnh Con lợn thì tôi đã rất ấn tượng về nó”. Tôi nghĩ rằng uy tín người hùng chiến tranh của JFK cho phép ông ấy coi thường Bộ tổng tham mưu. Ông ấy gạt bỏ họ như một đám người già cỗi. Ông nghĩ Lemnitzer là một tay đần độn”.
Tổng thống Kennedy cũng còn nghĩ nhiều đến CIA, một phần bởi ông và người em trai không thể thiếu được, Bộ trưởng Tư pháp Robert Kennedy, trở nên tin chắc rằng cơ quan này không chỉ thiếu khả năng mà còn là một tổ chức “xấu xa”. Sau sự kiện Vịnh Con lợn - và đặc biệt là vụ khủng hoảng tên lửa Cuba - anh em nhà Kennedy dường như trở nên lo ngại hơn với việc xoa dịu và coi vụ Cuba như một vấn đề chính trị trong nước - nơi người ta thiên cánh hữu - hơn là thật sự muốn có một sự thay đổi chế độ tại đây. Những nỗ lực đen tối hơn chống lại Fidel – các kế hoạch phối hợp với mafia để ám sát ông ta - đã được bắt đầu trước khi Kennedy làm Tổng thống và vẫn còn tiếp tục sau khi Chính quyền Kennedy kết thúc. Robert Kennedy - một huyền thoại chống tội phạm có tổ chức - nghĩ rằng đã chấm dứt được tất cả những âm mưu ám sát sau khi 2 quan chức CIA “ngượng ngùng” thông báo về thoả ước giữa cơ quan này với bọn tội phạm hồi tháng 5/1962. Tuy nhiên, nhiều khả năng anh em nhà Kennedy không biết về những kế hoạch trong bóng tối của cơ quan này.
Cố vấn của Robert Kennedy tại Bộ Tư pháp và sau đó là chủ bút tờ Tennessean, John Seigenthaler, nói: “Tôi nghĩ và tôi vẫn cảm thấy rằng CIA ngây thơ trong các hoạt động của họ. Họ làm việc theo cách giống như điệp viên 007... thực tế chúng ta liên quan tới Chiến tranh lạnh, và cơ quan này rõ ràng đóng một vai trò trong đó. Tuy nhiên tôi không nghĩ rằng anh em nhà Kennedy cho rằng bạn có thể tin tưởng nhiều vào những gì họ (CIA) nói. Chúng tôi cố gắng tìm cách thoát ra khỏi Chiến tranh lạnh, song CIA thì thực sự không muốn”.
Thậm chí Tổng thống Kennedy cũng không tin tưởng vào Lâu Năm Góc. Schlesinger cho rằng “chắc chắn chúng ta không kiểm soát được Bộ Tổng tham mưu”. Đó là một sự quan sát lạnh lùng, cân nhắc tình trạng hạt nhân đang rất căng thẳng vào lúc đó. Cựu cố vấn Nhà Trắng phát hiện rằng JFK ít lo ngại việc nhà lãnh đạo Sô Viết lúc đó là Nikita Khrushchev sẽ đưa ra quyết định tấn công bất ngờ bằng “có điều gì đó trở nên sai lầm giống như trong bộ phim Dr.Strangelove” - bắt nguồn từ một vị Tướng Mỹ bất ổn về chính trị và phát động Thế chiến thứ ba.
Kennedy đặc biệt bị áp lực từ Tư lệnh Không quân hiếu chiến và nghiện thuốc lá nặng, Tướng Curtis LeMay, người luôn tin rằng Mỹ nên phát động trước một cuộc tấn công bằng hạt nhân vào Nga trong khi Mỹ đang có ưu thế sở hữu loại vũ khí này hơn. Trong suốt thời gian cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba 13 ngày, Kennedy phải chịu áp lực không ngớt từ phía LeMay và gần như toàn bộ các cố vấn an ninh quốc gia muốn “nướng” Cuba, theo cách dùng từ không thể quên được của ngài Tư lệnh Không quân. Tuy nhiên, JFK - trong bối cảnh không khí các cuộc họp Nội các trở nên căng thẳng chỉ nhận được sự ủng hộ quan trọng nhất từ người em Bobby và Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara - tiếp tục muốn tìm kiếm một giải pháp phi quân sự. Khi Kennedy - vẫn tiếp tục theo đuổi các cuộc đàm phán ngầm với Kremlin - cuối cùng cũng đạt được thoả ước với Khrushchev, thế giới vừa trải qua “thời khắc nguy hiểm nhất trong lịch sử loài người”, theo quan điểm của Schlesinger. Tuy nhiên, không ai biết ở thời điểm đó biết nó nguy hiểm đến nhường nào. Nhiều năm sau, khi tham dự lễ kỷ niệm lần thứ 40 cuộc khủng hoảng trên tại một hội thảo ở La Habana, Schlesinger, Sorensen và McNamara đều choáng váng khi biết rằng nếu Mỹ tấn công Cuba, các chỉ huy người Nga tại đảo quốc này trước đó đã được lệnh sẽ đáp trả bằng các tên lửa hạt nhân chiến lược và chiến thuật. Sorensen lưu ý rằng Bộ Tổng tham mưu đã đảm bảo với Kennedy trong suốt cuộc khủng hoảng đó là “không hề có đầu đạn hạt nhân tại Cuba vào thời điểm đó”. “Họ đã nhầm”. Nếu Kennedy nhượng bộ trước áp lực của các cố vấn quân sự, một vùng đô thị rộng lớn của nước Mỹ nằm trong tầm bắn của hệ thống tên lửa Sô Viết lắp đặt tại Cuba có thể đã trở thành bãi phóng xạ tan hoang.
Việt Nam cũng là một nguồn gốc căng thẳng khác lớn dần lên trong nhiệm kỳ Tổng thống của Kennedy. Một lần nữa, phái cứng rắn tại Washington muốn đẩy mạnh tốc độ leo thang chiến tranh, muốn có sự đối đầu quân sự thực sự với kẻ thù Cộng sản mà JFK đã từ chối triển khai tại Cuba và nhiều chiến trường Chiến tranh lạnh khác. Tuy nhiên, số quân Mỹ có mặt tại Việt Nam khi đó tối đa chỉ là 16.000 người, trong đó phần lớn là cố vấn. Và, Kennedy đã tiết lộ với những cố vấn tin cậy như McNamara và cố vấn Nhà Trắng O’Donnell, dự định sẽ rút toàn bộ quân đội Mỹ khỏi Việt Nam ngay sau khi tái đắc cử vào năm 1964. Ông nói với O’Donnell: “Do đó chúng ta tốt hơn nên đảm bảo chắc chắn rồi tôi sẽ tái đắc cử”.
Lo ngại vấp phải sự phản đối từ các Tướng lĩnh và cánh hữu - dưới sự lãnh đạo hăng hái của Barry Goldwater, người dường như là đối thủ tiềm năng của ông trong cuộc vận động tranh cử Tổng thống sắp tới - Kennedy không bao giờ công khai kế hoạch về Việt Nam của ông. Và, theo kiểu cách thật sự của Kennedy, những tuyên bố của ông của cuộc xung đột tại Đông Nam Á thường ở dạng đa nghĩa mập mờ. Bị vây quanh bởi những cố vấn an ninh quốc gia luôn có khuynh hướng leo thang chiến tranh và cố ngăn cản một sự rạn nứt công khai trong giới cầm quyền, Kennedy đã đưa ra “rất nhiều cấp độ lừa dối” về các quyết định của ông đối với Việt Nam, theo cách dùng từ của sử gia Gareth Porter.
Kennedy không bao giờ có thể đưa ra vấn đề này trong cuộc bầu cử năm 1964, và kể từ đó ông để lại cả một đống đổ nát cho người kế nhiệm, Lyndon Johnson, người thể hiện sự can thiệp sâu hơn vào Việt Nam như là sự phát triển có tính logic các chiến lược của JFK. Tuy nhiên McNamara biết sự thật. Người đã giúp Johnson mở rộng chiến tranh trở thành một thảm kịch to lớn biết rằng Kennedy sẽ không làm điều như thế. Và McNamara thừa nhận điều này, dù nó làm nổi bật sự tự kiển trách mình. Cuối cùng, ngày hôm nay McNamara nói, Kennedy sẽ rút quân, thừa nhận “đó là cuộc chiến tranh miền Nam Việt Nam và những người ở đó giành chiến thắng ... chúng ta không thể giành chiến thắng trong cuộc chiến với họ”.
Những con diều hâu ngày hôm nay dường như coi JFK như là một trong những người anh hùng của họ bằng việc trích dẫn hành động tăng cường ngân sách quốc phòng và những bài diễn văn ngang ngạnh của ông, như bài tố cáo chế độ chuyên chế cộng sản phía bên kia bức tường Berlin tháng 6/1963. Họ thật sự tin rằng Kennedy đã mang đến một sức mạnh mới cho cuộc đấu tay đối quy mô toàn cầu với Liên Sô và những chính phủ đồng minh của họ. Tuy nhiên, những việc làm của Kennedy cũng thể hiện rõ ràng rằng ông thích việc đấu tranh về ý thức hệ và kinh tế với hệ thống Cộng sản hơn là đối đầu quân sự. Ông tuyệt đối tự tin rằng những lợi thế của hệ thống tư bản chủ nghĩa sẽ giành chiến thắng cuối cùng, chừng nào còn tránh được một thảm hoạ hạt nhân. Trong những tháng cuối cùng nhiệm kỳ Tổng thống, JFK thậm chí còn mở ra một kênh đối thoại hoà bình bí mật với Fidel, do nhà ngoại giao Liên hợp quốc William Attwood dẫn đầu. Mitt Ebbins, người bạn nối khố với JFK ở Hollywood nói: “Ông ấy sẽ công nhận Cuba. Ông ấy nói với tôi rằng nếu chúng ta công nhận Cuba, họ sẽ mua tủ lạnh và lò nướng bánh của chúng ta, và họ sẽ sớm loại bỏ Fidel”.
Kennedy thường nói ông muốn mộ chí của mình sẽ được tạc dòng chữ “Ông ấy đã giữ lại hoà bình”. Thậm chí cả Khrushchev và Fidel, những người đối đầu mạnh mẽ nhất của Kennedy, cũng đều đánh giá cao nỗ lực của JFK đối với mục tiêu đó. Nhà lãnh đạo Sô Viết, đã quẳng vị Tổng thống trẻ ra khỏi cuộc chơi của ông ta khi họ gặp nhau tại hội nghị thuợng đỉnh Viên năm 1961. Tuy nhiên sau khi cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba, hai nhà lãnh đạo đã trở nên tôn trọng lẫn nhau. Khi Khrushchev nhận được tin từ Dallas vào tháng 11/1963, ông bị suy nhược tinh thần và không thể giải quyết công việc tại điện Kremlin trong nhiều ngày. Bất chấp tuổi trẻ , Kennedy là một “nguyên thủ quốc gia thật sự”, Khrushchev đã viết như thế trong cuốn hồi ký sau này của mình, khi ông đẩy ra ngoài cỗ máy quyền lực tại Liên Sô chưa đầy một năm sau cái chết của JFK. Nếu Kennedy còn sống, ông viết, hai người đã có thể mang lại hoà bình cho thế giới.
Và cả Fidel cũng coi JFK như là một nhân tố thay đổi, bất chấp cuộc cạnh tranh cay đắng và lâu dài giữa họ, tuyên bố rằng Kennedy có khả năng để trở thành “Tổng thống vĩ đại nhất” trong lịch sử nước Mỹ. Đầy ấn tượng, nhà lãnh đạo Cuba chưa bao giờ đổ lỗi cho nhà Kennedy về vô số những âm mưu ám sát ông. Nhiều năm sau, khi quả phụ Ethel của Bobby Kennedy có chuyến thăm La Habana, bà đã quả quýêt với Fidel rằng “Jack và Bobby không liên quan gì tới những kế hoạch ám sát ông”. Nhà lãnh đạo cao lớn - người đã sống rất lâu một phần nhờ vào mạng lưới chỉ điểm tại Mỹ - đã nhìn bà và nói “Tôi biết”. JFK khá chậm trong việc xác định tầm nhìn toàn cầu, tuy nhiên dưới dưới áp lực tấn công của lực lượng cánh hữu đang được tiếp thêm sức mạnh, cuối cùng ông cũng bắt đầu làm như thế vào cuối năm đầu tiên trên cương vị Tổng thống. Phát biểu vào mùa thu năm 1961, ông đã nói với nhân dân Mỹ rằng tại sao những nỗ lực của ông nhằm giải cứu thế giới khỏi kết cục chết chóc của Chiến tranh lạnh trở nên lý trí hơn giải pháp quân sự của cánh hữư. Ngày 16/11, Kennedy có bài diễn văn bước ngoặt tại ký túc xá Đại học Washington ở Seatle. Không có gì “mềm mại” cả, ông tuyên bố ngày hôm đó, về việc ngăn chặn cuộc chiến hạt nhân - nước Mỹ thể hiện sức mạnh thật sự bằng cách tự kiềm kế lực lượng quân sự cho đến khi tất cả các bên đều mệt mỏi. Và sau đó Kennedy đã có sự thừa nhận khác thường về những giới hạn của sức mạnh Mỹ - điều mà dường như ngược lại với cam kết trong Diễn văn nhậm chức Tổng thống “chống lại bất cứ kẻ thù nào” trên thế giới. “Chúng ta phải đối mặt với thực tế rằng nước Mỹ không có quyền lực tuyệt đối hay sự minh triết tuyệt đối, chúng ta chỉ có 6% dân số thế giới, rằng chúng ta không thể áp đặt ý chí của mình lên 94% nhân loại, rằng chúng ta không thể sửa sai hoặc đảo ngược những nghịch cảnh, và do đó không thể có một giải pháp Mỹ cho mọi vấn đề của thế giới”.
Sorensen - một nhà cấp tiến trẻ tuổi theo xu hướng hoà bình, một người theo thuyết chính trị tập trung giúp Kennedy viết bài diễn văn đó - ngày nay đã gọi đây là “một trong những bài diễn văn xuất sắc nhất của Kennedy về chính sách đối ngoại”. Ông cho rằng nếu JFK còn sống, “sẽ không có nghi ngại rằng chúng tôi đã đặt nền móng cho hoà bình. Cuộc chiến tranh lạnh sẽ kết thúc sớm hơn so với thực tế”.
Kennedy đã đạt đến đỉnh cao trong khả năng viễn thị khác vào ngày 10/6/1963, khi - với sự háo hức phá vỡ thế bế tắc ngoại giao với Liên Xô - ông đã chắp cánh cho bài diễn văn đối ngoại nên thơ nhất trong đời mình, một bài diễn văn sẽ đi vào lịch sử như một “Diễn văn hoà bình”. Trong bài diễn văn sôi nổi đó, JFK sẽ làm những việc mà không vị Tổng thống nào trong suốt Chiến tranh lạnh - và không một nhà lãnh đạo ngày nay của Mỹ - dám. Ông cố gắng con người hoá kẻ thù. Ông phát biểu với công chúng Mỹ, không gì “mâu thuẫn sâu sắc hơn” khi chúng ta phải nhận ra ý thức hệ hoặc hệ thống chính phủ của những kẻ đối địch rằng họ - cũng giống như chúng ta - đều là con người. Và sau đó Kennedy đã phát đi một thông điệp hùng biện và thấu cảm có ảnh hưởng sâu rộng như thế tới người dân Nga - kẻ thù mà cả một thế hệ người Mỹ được dạy phải sợ hãi và khinh miệt - rằng hoà bình vẫn có sức mạnh để thôi thúc. “Chúng ta đều là những cư dân trên địa cầu nhỏ bé này. Chúng ta đều thở chung trong một bầu khí quyển. Tất cả chúng ta đều thương yêu tương lai con em chúng ta. Và rồi tất cả chúng ta đều sẽ chết”. Nhiều tháng sau đó, Mỹ và Liên Sô đã đạt được một thoả ước về Hiệp định cấm thử vũ khí giới hạn, sự kiềm chế đáng kể đầu tiên nhằm ngăn cản cuộc cạnh tranh vũ trang chết chóc của các siêu cường.
Dự định Kennedy sẽ đọc bài bài diễn văn này tại Dallas vào ngày 22/11/1963, được cho là sẽ gióng lên một bản hợp âm hoà bình quen thuộc. Bài diễn văn dũng cảm dự định sẽ được đọc tại thành phố Texas, nơi luôn sôi sục tình cảm chống Kennedy. Đại đa số các cử tri ở những thành phố lớn tại Dallas đều bỏ phiếu trong Nixon năm 1960. Nơi đây cũng là căn cứ địa của phái cực hữu như Tướng Edwin Walker - người sau đó đã bị Chính quyền Kennedy buộc phải từ chức - đã phát động một chiến dịch quốc gia chống lại chính sách đối ngoại “chủ bại” và chiến lược đối nội “chủ nghĩa xã hội” của JFK. Vào cái ngày đoàn xe Tổng thống diễu hành tại Dallas, những áp phích đầy giận dữ được dán khắp đường và một tờ yết thị đăng trên tờ Dallas Morning News đã cáo buộc JFK bội tín. Tuy nhiên, Kennedy không hề nao núng. Đây là những gì ông kế hoạch phát biểu với thính giả tại Trung tâm thưong mại Dallas chiều hôm đó: biện pháp hiệu quả nhất để tập trung sức mạnh Mỹ không phải là đe doạ kẻ thù của nó. Đó là cách làm sống lại lý tưởng dân chủ của nước này và “thi hành những thứ mà nó đề cập về quyền bình đẳng và công bằng xã hội”.
Ngay sau cái chết của John Kennedy, ông được bao bọc bởi những huyền thoại về lòng dũng cảm theo kiểu Vua Arthur. Trong những năm gần đây, ông cũng vẫn phải chịu sự phán xét dữ dội của những người theo chủ nghĩa xét lại, được minh hoạ trong nhiều cuốn sách và trên phương tiện truyền thông như là một hoàng tử suy đồi - người đưa đất nước vào vị trí nguy hiểm với thái độ cá nhân liều lĩnh. Nhà báo Christopher Hitchens đã đẩy sự việc đi quá xa khi mô tả ông như là một “tên lưu manh thô tục”. Trong khi cuộc sống cá nhân của Kennedy ngày nay chắc chắn sẽ phải chịu sự soi mói của công luận thì sự minh triết mang tính bệnh lý này sẽ làm hiểu sai thực chất quãng thời gian làm Tổng thống của ông. Có một sự vĩ đại mang tính anh hùng đối với Chính quyền Kennedy khi không làm gì với những nắm đấm của Camelot (lâu đài của vua Arthur). Đó là một nhiệm kỳ Tổng thống xung đột với thời đại của nó và gần như chạm vào sự vĩ đại. Trong giai đoạn cao trào của Chiến tranh lạnh, Kennedy đã tìm ra cách để lùi bước trước vấn đề hạt nhân. Dưới áp lực không ngừng của một cuộc chiến tranh, ông đã nắm giữ được hoà bình. Ông đối thoại với kẻ thù, ông thừa nhận những giới hạn trong sức mạnh Mỹ, ông hiểu rằng kẻ thù thực sự đến từ lý tưởng về dân chủ chứ không phải do khả năng quân sự.
Ông thật sự vẫn là người đi trước thời đại của mình./.

Đây là bài phân tích của nhà báo David Talbot, tác giả cuốn sách “Những người anh em: Lịch sử bí mật về những năm tháng của Kennedy” xuất bản trên Press News 2007.

Thứ Tư, 11 tháng 7, 2007

Tường thuật buổi đi xem chuyên đề + phim tại trung tâm TPD

Thế hệ đạo diễn thứ sáu của điện ảnh Trung Quốc: Hậu-hiện đại hay là sự cởi trói về tư duy? (tiêu đề là do tôi tự đặt)

Hôm qua rủ T. đến TPD xem phim. Một phần tò mò vì họ sẽ chiếu Still life (Người tốt ở Tam Hiệp) [đoạt giải Golden Lion Venice Film Festival năm 2006] của đạo diễn Giả Chương Kha, nhưng nếu chỉ có thế thì không thể buộc tôi phải lặn lội 20km đường bụi giữa trưa nắng gắt đến đón T. bởi đã có DVD này ở nhà. Quan trọng tôi là muốn xem anh Phan Đăng Di nào đó giới thiệu như thế nào chuyên đề về thế hệ đạo diễn thứ sáu của Trung Quốc, một đề tài rất hấp dẫn. Kể ra tôi mới xem một vài phim gần đây của mấy đạo diễn trẻ mới nổi của Trung Quốc như Crazy Stone (Cuồng thạch – Ninh Hạo) ảnh hưởng rõ rệt chất black comedy (khôi hài chua chát?) và neo-British crime của Guy Richie; Kekexili (Khả khả tây lý – Lưu Chuẩn) đậm chất hiện thực tàn nhẫn; Beijing Bicycle (Xe đạp Bắc Kinh – Vương Tiểu Soái) với cách kể chuyện phi tuyến tính hấp dẫn và cảm động... Những bộ phim tạo cho tôi ấn tượng rất tốt và muốn tìm hiểu về các đạo diễn trẻ của Trung Quốc hay còn được một số nhà phê bình gọi là thế hệ đạo diễn thứ sáu của nước này.
Mở đầu, anh Di giới thiệu sơ qua về bản thân, hình như tốt nghiệp ĐHSKĐA (chắc thế) và cũng có làm giảng viên j đó (do not fucking care). Chuyên đề được tiếp tục với việc anh Di trình bày “sơ sơ” [khoảng ½ thời gian presentation] về thế hệ đạo diễn thứ năm với 3 đạo diễn tiêu biểu, trong đó có 2 người rất quen thuộc là Trần Khải CaTrương Nghệ Mưu. Một vài đoạn trích ngắn các tác phẩm như “Cao lương đỏ”, “Kinh Kha sát Tần vương” mang tính đại diện của hai bác này cũng được giới thiệu. Nhân vật tiêu biểu thứ ba trong thế hệ thứ năm mà bác Di đề cập là đạo diễn Điền Tráng Tráng (Tian Zhuangzhuang) - một cái tên khá quen nhưng hình như tôi chưa bao giờ xem phim của bác ý [vừa check trên google, anh Di đã sai khi nói rằng bác Điền sau khi có một phim bị cấm chiếu ở Trung Quốc thì không làm phim nữa, thông tin mới nhất thì Điền đạo diễn vừa có tác phẩm đoạt giải Kim tước 2007]. Hơi buồn là bộ phim bị cấm chiếu của Điền Tráng Tráng cũng được trích đoạn thì tôi lại không nhớ tên. Khoảng thời gian này, anh Di liên tục nhắc đi nhắc lại về ưu điểm của Trần và Trương đạo diễn. Đối với Trương Nghệ Mưu, điểm mạnh chính là những khuôn hình mạnh mẽ đặc sắc do ưu thế xuất thân là dân quay phim, còn điểm mạnh của Trần Khải Ca là những đại cảnh được dàn dựng một cách công phu hoành tráng. Anh Di cho rằng đề tài mà thế hệ thứ năm thích khai thác thường là bi kịch thân phận con người trong và sau Cách mạng văn hoá hoặc dã sử - những đặc sản không chỉ được người nước ngoài quan tâm. Sau khi lan man rất nhiều những câu chuyện ngoài lề gần như là huyền thoại về Trương Nghệ Mưu cũng như sự cạnh tranh đầy toan tính giữa ông này và Trần Khải Ca, anh Di có nhắc tới một ý kiến khá lạ mà tôi cho rằng đây là điểm đáng quan tâm thứ nhất của buổi chuyên đề lần này. Anh trích dẫn một chương trong “Người đẹp tặng ta thuốc bùa mê” - một tác phẩm tiểu luận phê bình đầy tranh cãi với nội dung lật đổ những tượng đài văn hoá nghệ thuật đương đại của Trung Quốc - của nhà văn nổi tiếng Vương Sóc. Chương đó là nội dung cuộc trao đổi giữa Vương Sóc và nhà văn Lưu Hiệp về thế hệ đạo diễn điện ảnh thứ năm, trong đó Vương chỉ trích những người này là giả dối, vụ lợi, làm người nước ngoài hiểu sai về con người Trung Quốc, tinh thần Trung Quốc. Vương Sóc cho rằng nếu phải so sánh phải thì các bộ phim của đạo diễn Đài Loan Hầu Hiếu Hiền mới thực sự có tinh thần Trung Quốc và phản ánh chân thực về con người Trung Quốc nhất. Hiện tôi mới chỉ được xem hai phim [hay] của Hầu Hiếu Hiền là Three Times, Milenium Mambo. Quả thật, với tôi lời nhận xét của Vương Sóc khá hợp lý dù nghịch nhĩ. Văn hoá hay mở rộng ra là nền văn minh Trung Quốc không chỉ có Cách mạng văn hoá đầy máu và nước mắt hay những âm mưu tranh đoạt vương quyền truyền thuyết...
Điểm đáng chú ý thứ hai cũng là nội dung chính của chuyên đề: Thế hệ đạo diễn thứ sáu của điện ảnh Trung Quốc. Anh Di nói rất nhiều những thủ pháp mà những đạo diễn thứ 6 hay dùng. Đó là lối kể chuyện phi tuyến tính, phi cốt chuyện, diễn viên đa phần nghiệp dư, lối quay phim đậm chất tư liệu, ấn tượng cơ giới hiện đại dày đặc trên các khuôn hình với nhiều xảo thuật được áp dụng, ví dụ như lồng ghép những đoạn flash hoạt hình để tạo hiệu ứng thị giác mới lạ... Đề tài trong phim của các đạo diễn thế hệ thứ 6 cũng ko còn bị bó hẹp trong khuôn khổ-tự-tạo-ra của thế hệ đàn anh nữa mà rộng mở một cách linh hoạt và đậm chất black comedy trên mọi chủ đề, kể cả những điều-vốn-cấm-kỵ [nhạy cảm] ở Trung Quốc. Dường như những con người thế hệ thứ sáu đang giễu nhại và châm biếm mọi thứ. Anh Di sử dụng rất nhiều lần từ “hiện đại” để mô tả về thế hệ này, nhưng tôi cho rằng anh đã nhầm. Những thủ pháp mà anh Di liệt kê (một số do tôi dẫn giải ý của anh Di) thực ra chính là những đặc điểm gần như là tiêu biểu nhất của “Chủ nghĩa hậu-hiện đại” (Po-mo)... Một số đoạn trích ngắn phim của các đạo diễn tiêu biểu thế hệ thứ sáu này cũng đuợc anh Di giới thiệu như Frozen (Đông cứng) và Beijing Bicycle của Vương Tiểu Soái, The World (Thế giới) của Giả Chương Kha ...
Một điểm spoiler khác mà theo tôi là xuất phát từ ý định ban đầu vốn rất tốt của anh Di: dường như sợ khán giả không hiểu được những gì được cho là khác biệt về thủ pháp với thế hệ thứ năm nên anh đã nhảy vào đầu người nghe/xem để kể lại môt cách rõ ràng [đến thô thiển] về nội dung phim Beijing Bicycle vốn không khó hiểu [mà cái hay của phim này là cách kể chuyện phi tuyến tính] cũng như giải thích tất cả những gì có thể được coi là mới lạ và hay ho trong The World [chán thay anh Di lại thòng cái câu rằng kỹ thuật này cũng được Giả Chương Kha sử dụng trong Still life - sẽ được chiếu sau đó].
Cuối cùng, chuyên đề giới thiệu về thế hệ đạo diễn thứ sáu của Trung Quốc cũng đi tới màn kết sau presentation không xuất sắc lắm của anh Phan Đăng Di. Bản DVD Still life xịn với En sub bắt đầu được chiếu, giữa tiếng khoan cắt đập phá của nhà hàng xóm và sự bỏ về lác đác của khán giả [đúng như anh Di cảnh báo trước đó, phim khó xem nhưng thật sự hay và lạ] ...