Thứ Hai, 28 tháng 1, 2008

Yêu V

mệt mỏi những dông dài thường nhật
ta mê mải những bài thơ không vần
không nhịp điệu
và tiếng rao
à ơi ai mua đêm ta bán
bán hết
những giọt đêm đọng bên cửa sổ nâu
tiếng vĩ cầm đã đứt
những con chữ ngừng nhảy múa

tan biến
chỉ còn tiếng rao ê a đêm tháng Chạp
tiếng rao đêm
và tiếng nức nở của bóng tối
không ngừng cuộc tìm kiếm tìm kiếm tìm kiếm
và lặng lẽ
trôi xa
ê a trong 30m2 chật hẹp à ơi ai mua đêm ta bán ai mua đêm ta bán ta bán
những ngón tay khua trong bóng tối
tiếng vọng mơ hồ của những cơn mưa tháng Chạp
đông cứng

Thứ Bảy, 26 tháng 1, 2008

Sometimes you meet someone-Danie Marais

Đôi khi bạn gặp ai đó - Danie Marais

Sáng nay tôi nhìn thấy con mèo cái
của chúng tôi cuộn mình ngủ ngon lành
trong rổ quần áo giặt.
Một chân ngập ngừng vắt qua đầu cô ả,
hai chân sau trắng muốt
cuộn thành một vòng tròn.

Bản thân một con mèo là giường,
là nhà cửa, là đảng phái, là tôn giáo, là phong trào, là công đoàn.
Một con mèo là bộ lông thú ngôn từ không thể kháng cự hoàn hảo.

Loài người không như vậy.
Loài người là bảng hiệu giao thông ở đáy một đại dương
vẩn vơ trong lời nói.
Loài người là trống rỗng.
Loài người là “Để Bán”.
Loài người là những con phố cụt.
Loài người lấy hết những gì có thể nhận
Loài người lượn lờ như bướm đêm quanh một mặt trăng xưa rồi.
Họ chẳng thể tự cứu mình.

Loài mèo chỉ tới và sống với con người
khi chúng mệt mỏi hay đói khát.

Loài người từ hàng thế kỷ nay vẫn tự hỏi về loài mèo.

Mèo nhà có thể ăn loài người
chỉ khi họ đã chết.

Đôi khi bạn gặp ai đó giống như là mèo.
Bạn tìm thấy ý nghĩa cuộc đời mình
trong thanh âm của tên nàng.
Bạn bò lê bò càng theo mùi hương nàng,
nhưng khi bạn bắt kịp nàng
mắt nàng đổi khác
tay bạn thành những trường bắn
lưỡi bạn thành cát.

Nàng biến mất như bóng tối trong đêm.

Thứ duy nhất còn lại
là đường dây ngoài trống rỗng –
một cuộn khói
viên đá cẩm thạch nâu trên một mẩu giấy trắng
chiếc nhẫn cưới trong ngăn kéo bạn.

(Chuyển ngữ từ tiếng Đức bởi Richard Jürgens, trích từ thi phẩm die buitenste ruimte, NXB Tafelberg, Cape Town, 2006)


SOMETIMES YOU MEET SOMEONE - Danie Marais

This morning I found our
cat sleeping happily curled up
in the washing basket.
A sleeping paw over her head,
two white back paws
completing the circle.

A cat is its own bed,
own house, party, religion, movement, union.
A cat is a perfectly irresistable word of fur.

People aren’t like this.
People are road signs on the bottom of an ocean
dreamed in words.
People are empty.
People are “For Sale”.
People are dead-end streets.
People take what they can take.
People flitter like moths around a long-ago moon.
They can’t help themselves.

Cats come and live with people only
when they’re tired, thirsty or hungry.

People have been wondering for centuries about cats.

Housecats eat their people
only when they are already dead.

Sometimes you meet someone who is just like a cat.
You find the meaning of your life
in the sound of her name.
You run hand-over-foot after her perfume,
but when you get her
her eyes change
your hands into shooting ranges
your tongue into sand.

She disappears like darkness in the night.

The only thing that remains
is an outside line of emptiness –
a wisp of smoke
brown marbling on a piece of white paper
wedding ring in your drawer.

(source: http://southafrica.poetryinternationalweb.org/piw_cms/cms/cms_module/index.php?obj_id=10845&x=1)

Science Fiction-Les Murray

Khoa học viễn tưởng - Les Murray

Ta có thể du hành
nhanh hơn ánh sáng
nên mi cũng thế đấy
tốc độ của suy tư
chỉ duy nhất vấn đề
là những đích tới
những quả cầu ý nghĩ chúng ta
được khoác vỏ bọc vô hình
không ai thấy chúng ta ở đó
nhưng chúng ta cũng không thể thoát ra
để trở về thực tại
điện thoại và videophone
gần như quá tệ
chúng ta không thể thấy một hành trình
ngoài việc ở lại trong không gian
chỉ tán phét và đùa rỡn lung tung
về những thứ chúng ta vươn tới
nhưng chẳng thể chạm vào
sự tầm thường mà có thể làm đau chúng ta
điều này mới đáng yêu
ghê tởm và cô đơn làm sao

(The New Yorker 28/1/2008 issue)

Science Fiction-Les Murray

I can travel
faster than light
so can you
the speed of thought
the only trouble
is at destinations
our thought balloons
are coated invisible
no one there sees us
and we can’t get out
to be real or present
phone and video phone
are almost worse
we don’t see a journey
but stay in our space
just talking and joking
with those we reach
but can never touch
the nothing that can hurt us
how lovely and terrible
and lonely is this

Thứ Sáu, 25 tháng 1, 2008

Fidget-John Hollander

Bồn chồn - John Hollander

Ý nghĩ đóng băng trong
Một mùa đông khô khốc tháng Ba lạnh giá,
Đôi mắt khô khốc của hắn

Xám tối và tái nhợt đi
Màu xám của những đồng gần và những đồi xa
Bất động, ý nghĩ hắn,


Lặng im chơi
Nhiều lần với
Hàng chuỗi ngôn từ lo lắng của hắn.

(on the New Yorker 28/1/2008 issue)

Fidget-John Hollander

Thought frozen in the
Cold March of a dry winter,
His dry eyes regard

Dark grays and fainter
Grays of near fields and far hills
Motionless, his mind

Playing silently
Over and over with his
Worry beads of words.

Thứ Năm, 24 tháng 1, 2008

Vỡ

Hôm nay thật tồi tệ tôi ngồi trước màn hình gõ và gõ xoá và xoá tới
ba bài thơ dang dở. hình như tôi đang cố chối bỏ những đứa con
dị dạng để chẳng hướng tới đâu. vô vọng tôi nói chuyện phiếm
và còn giận giữ hơn khi ai đó đề cập tới một tay diễn viên ngôi sao
nào đó chết vì uống thuốc ngủ quá liều. điều này thật vô nghĩa. với những
liều methadone thông thường cũng đủ làm tim đột ngột ngừng lại. bạn
sẽ chìm trong giấc ngủ và sáng hôm sau không ai có thể đánh thức bạn.
điều đó quá khó khăn? để chấp nhận. tôi không tin điều đó. thật sự.

chúa đã chết. đó là điều tôi xác tin. tôi không tin sự phục sinh. với tôi
đức tin là quá đắt và chắc chắn tôi không bao giờ đủ tiền để mua
nó. nhưng hình ảnh một người ôm mặt khóc dưới chân thánh đường
trong một ngày mưa, chắc chắn, thật đẹp, tôi xác tín điều đó. bởi trên
cao một nỗi buồn lớn ngắm nhìn một nỗi buồn nhỏ. và không có gì
xảy ra, tôi xác tín điều đó, tiếp theo. giờ đây tay tôi lạnh cóng. tôi hút
một điếu thuốc và ngắm nhìn những làn khói bập bềnh trong không
gian với những tư thế thật siêu hình. điều đó có ý nghĩa gì? hôm nay
tôi đọc một bài thơ. và tôi không cảm thấy từng giọt mưa ngoài kia
còn đẹp nữa. tôi xác tín điều đó. điều đó có ý nghĩa gì? Giấc mơ.

tôi xác tín một nỗi buồn. tôi xác tín tay ca sĩ da đen đang rên rỉ một điệu blues
buồn, thật buồn. và những giọt mưa rơi, rơi mãi. thành phố bập bềnh trôi
trong một giọt nước lớn. rõ ràng thánh đường làm bằng nước mắt. tôi
nghi ngờ, chúa là kẻ ưa nước mắt, và từng khóc nhiều hơn bất cứ ai, tôi
tuyên bố điều đó. nhưng tôi đột nhiên nghi ngờ. nếu vậy thì, rõ ràng, tôi
sinh ra
từ
nước mắt.
Tôi xác tín điều đó.

Chủ Nhật, 20 tháng 1, 2008

Walt Whitman-Tallulah Flores

Walt Whitman - Tallulah Flores

Bởi lúc nào đó ông nhắc tới những đường biên
dẫu biết rằng những đường biên chẳng hề tồn tại
và rằng chẳng có gì là chắc chắn, cả những thứ giản đơn, những thứ không tồn tại,
tôi ngợi ca Walt Whitman và tôi lạc trong giọng hát ông
bởi dễ nhận thấy ông gần như có thể chối bỏ mình
sáng tác đoạn đối thoại của những chối bỏ sắp tới khác
hoặc những gần gũi càng hợp hơn để tụng ca thời gian.

Bài ca của ông, giờ đây tôi tự hát
và lấy làm của mình, của những người đang tới
bởi ông yêu cầu điều đó và tôi tin vào bản thân
và vào thời đại đau thương và chết chóc hão huyền của mình,
và vào tương lai hão huyền những cuộc sống mà tôi sẽ không ở đó.

Tôi không độc đáo, như ông đã nói, và tôi sẽ không bao giờ trở thành ai khác, bởi điều này vô nghĩa.
Bởi chúng ta đang nhắc tới biển, và chạm vào biển, và du hành tới biển,
bởi mọi thứ đều khô cằn
và thấy thứ chúng ta có thể là trong quá khứ và hiện tại.
Bởi chúng ta đã không biết về dòng sông hay con người thật
Và chúng ta nhảy bổ vào phân bón và lớn lên nhờ nó.
Bởi chúng ta đang ném những bài diễn văn lên đất ẩm và lên đất khô,
Và tự hỏi những câu mà chúng ta có thể nghĩ về thời gian, bởi thời gian đang phiền nhiễu chúng ta
Tôi đang nói điều này để ông có thể tụng ca nó.

Giai điệu không thể sai lạc!
Ông chạm vào tai tôi dù tôi không yêu cầu.
Tôi luôn biết điều này và nó không làm tôi hạnh phúc.
Ông đã đạt được hạnh phúc nhờ thả hồn ngắm lá cỏ mùa hè.
Chúng tôi chỉ ngắm những chiếc lá đó trong một mùa
Và chúng tôi không nhận ra điều bí ẩn.
Chúng tôi không có tự tin của ông, Walt Whitman.
Chúng tôi đang vượt qua ông trong cõi chết.

(Chuyển ngữ từ tiếng Tây Ban Nha bởi Nicolás Suescún, trích từ thi tập Nombrar las cosasNXB: First published on PIW, 2008)


WALT WHITMAN

Because at some point he mentioned frontiers
knowing that frontiers do not exist
and that nothing was certain, not even simple, non-existent things,
I celebrate Walt Whitman and I lose myself in his voice
because it’s easier to know he’s near to be able to abandon him
inventing another dialogue of forthcoming abandonments
or proximities more fitting to the celebration of time.

Song of himself, I sing myself
and take possession of myself, of those who come
because you asked for it and I believe in myself
and in my time of vain sorrow and death,
and in the so vain future of the many lives I will not live.

I am not original, as you said, and I shall never be either, because it means nothing.
Because we talk about the sea, and touch the sea, and travel to the sea,
because everything is dryness
and we see what we can of the past and the present.
Because we did not know the true river or the real man
and we jumped into the manure and built on it.
Because we throw discourses onto the wet earth and onto the dry earth,
and ask ourselves questions so we can think about time, because time disturbs us.
I’m saying it so that you can celebrate it.

Incorrigible melody!
You touch my ear athough I did not ask it.
I have always known it and it does not make me happy.
You attained happiness by inviting your soul to observe a leaf of grass in summer.
We observe the leaves in only one season
and we’re blind to mystery.
We don’t have your assurance, Walt Whitman.
We have outdone you in death.

(source: http://colombia.poetryinternationalweb.org/piw_cms/cms/cms_module/index.php?obj_id=10792&x=1)

Thứ Năm, 17 tháng 1, 2008

Old Marx-Adam Zagajewski

Già Marx - Adam Zagajewski

Tôi cố hình dung mùa đông cuối cùng của ông,
London, lạnh và ẩm ướt, những nụ hôn cộc lốc của tuyết
trên các con phố vắng, nước dòng Thames đen kịt.
Những nàng điếm lạnh cóng đốt rác trong công viên.
Những đầu máy đồ sộ nức nở đâu đó trong đêm.
Những công nhân liến thoắng trong tiệm rượu
làm ông chẳng hiểu nổi lấy một từ.
Cũng có thể châu Âu sung túc hơn và yên bình,
song lũ Bỉ vẫn làm tình làm tội ở Congo.
Còn nước Nga? Chính thể chuyên chế của nó? Siberia?

Ông chăm chú nhìn những cửa chớp vào buổi chiều.
Ông không thể tập trung, viết lại tác phẩm cũ,
không ngừng đọc lại tay Marx trẻ trong nhiều ngày,
và bí mật hâm mộ tác gia tham vọng ấy.
Ông vẫn giữ niềm tin về bóng ma tuyệt vời của mình,
song lắm khi ngờ vực
rằng mình chỉ đưa ra cho thế giới
một dạng tuyệt vọng mới;
rồi ông nhắm mắt và chẳng thấy gì khác
ngoài phía tối đen của mi mắt đỏ tươi.

(Chuyển ngữ từ tiếng Ba Lan bởi Clare Cavanagh)
(on The New Yorker January 21, 2008)

Old Marx-Adam Zagejewski

I try to envision his last winter,
London, cold and damp, the snow’s curt kisses
on empty streets, the Thames’ black water.
Chilled prostitutes lit bonfires in the park.
Vast locomotives sobbed somewhere in the night.
The workers spoke so quickly in the pub
that he couldn’t catch a single word.
Perhaps Europe was richer and at peace,
but the Belgians still tormented the Congo.
And Russia? Its tyranny? Siberia?

He spent evenings staring at the shutters.
He couldn’t concentrate, rewrote old work,
reread young Marx for days on end,
and secretly admired that ambitious author.
He still had faith in his fantastic vision,
but in moments of doubt
he worried that he’d given the world only
a new version of despair;
then he’d close his eyes and see nothing
but the scarlet darkness of his lids.

Thứ Hai, 14 tháng 1, 2008

4:30pm/lạnh/mơ

homage to allen ginsberg

chiều nay tôi thấy một người đàn ông vác đàn guitar trên vai băng qua đường
liệu có phải ông không Garcia Lorca nhưng tôi không thấy nắng phương Nam đâu cả có khi mặt trời cũng bị bắn chết ngày hôm đó


Ta đang lần mò Sigmund Freud giờ này ông ở đâu
phải thú nhận với ông sáng nay ta bắt gặp một giấc mơ
như ngày bé trong đó ta thấy những khối lập phương đỏ và đen
rồi như Alice lạc vào xứ Wonderland
ta trở nên nhỏ bé và những khối lập phương đổ khổng lồ đổ ập không ngừng vào ta
ta gào thét ta tỉnh dậy và thấy ga giường đã ướt
mẹ kiếp ta đã không gặp ông, ông đang Giải mộng cho ai khi đó
hiện tại ta đoán đấy chính là mặc cảm từng ám ảnh ta
nhưng nó lại ám ảnh ta và giờ đây ta vẫn thấy mình nhỏ bé và luôn bị hút vào những vòng xoáy đỏ và đen nhận chìm ta nghiền nát ta bằng những cơn mơ lập thể
nhưng như ta nói rồi đấy Freud ông hãy giải thích đi
hữu thức là vậy còn ẩn ức libido của ta là gì
ông đâu rồi

ồ xin lỗi Walt Whitman vì đã không nhận ra ông
mắt ta quá kém để nhận ra Lá cỏ và ta còn quên đeo kính nữa
nhưng bài hát của ông giờ vẫn là của ông
còn những ngọn cỏ của ta nát bươm như bộ râu bạc của ông vậy
còn Jack Kerouac vẫn cô đơn trên con đường cái quan không người đọc
trong khi William Burroughs mất tích chắc hẳn anh ta lạc lối khi tìm bữa ăn trưa trần truồng trong nhà thổ ở Tangiers
còn Michael McClure có lẽ vẫn đang khóc cho lũ cá voi khi những con tàu thịt bập bềnh trong không khí ở độ cao 10m so với mặt biển Atlantic

thật lòng
khu vườn của cha không khiến ta cảm thấy bớt sợ
con tàu gỗ của cha đã không ra khơi từ 20 năm nay
giờ buồn bã hướng đầu về phía Đông
ngóng một ngày nào đó có thể Poseidon sẽ nhận chìm nó trong nỗi nhớ về biển

ôi không
trên radio Louis Amstrong vẫn mải miết tìm một hợp âm nghịch cho cây trumpet
còn Miles Davis đâu nhỉ
à chắc hẳn bố già đang say trong ảo giác thi đấu với Frank Zappa
và người thắng cuộc là Bob Dylan với ba hợp âm quen thuộc còn giọng ca lăn lăn mãi

chết tiệt
ta lại thấy giấc mơ kia
như một bóng ma bao phủ châu Âu hàng thế kỉ
và giờ đây nó lan như dịch hạch
tràn ngập các kinh tuyến và các vĩ tuyến
với khát vọng nhào trộn các lục địa thành bột mỳ và nướng bánh cho những ruồi
cơn buồn nôn tuyệt vọng

Freud
khi ta cần ông nhất thì ông không có mặt
có lẽ ta cần nụ hôn chúc phúc của Judas thần thánh
và một lần nữa Carl Jung đi vắng
hắn ta mải Thăm dò tiềm thức cho Adolf Hitler chăng
hay đang sửa đồng hồ tại Zurich
hitler chết rồi

không
có lẽ ta nên quay về thế giới riêng của mình
và tiếp tục mơ giấc mơ đó
thế giới riêng của ta

Thứ Bảy, 12 tháng 1, 2008

Don't Allow The Lucid Moment To Dissolve-Adam Zagajewski

Đừng để quãng thời gian tỉnh táo này phân huỷ - Adam Zagajewski

Đừng để quãng thời gian tỉnh táo này phân huỷ
Hãy để ý nghĩ bức xạ này kéo dài trong lặng im
dù trang giấy này sắp đầy và ngọn lửa này bập bùng
Chúng ta vẫn chưa đạt tới vị trí của mình
Kiến thức lớn chậm như chiếc răng khôn
Vóc dáng một người vẫn được đo
trên cửa trắng

Xa tít tắp, tiếng hân hoan của một cây trumpet
và một bài hát cuộn lại như mèo
Thứ đang mất đi không tan vào trống rỗng
Người đốt lò vẫn đổ than vào ngọn lửa
Đừng để quãng thời gian tỉnh táo này phân huỷ
trong hợp chất khô cứng
mà anh buộc phải khắc ghi vào sự thật

(Chuyển ngữ từ tiếng Ba Lan bởi Renata Gorczynski)

Don't Allow The Lucid Moment To Dissolve - Adam Zagajewski

Don't allow the lucid moment to dissolve
Let the radiant thought last in stillness
though the page is almost filled and the flame flickers
We haven't risen yet to the level of ourselves
Knowledge grows slowly like a wisdom tooth
The stature of a man is still notched
high up on a white door

From far off, the joyful voice of a trumpet
and of a song rolled up like a cat
What passes doesn't fall into a void
A stoker is still feeding coal into the fire
Don't allow the lucid moment to dissolve
On a hard dry substance
you have to engrave the truth

(source: http://plagiarist.com/poetry/4272/)

My Aunts-Adam Zagajewski

Những dì tôi - Adam Zagajewski

Luôn bắt được những thứ các dì gọi
là hiện thực cuộc đời
(học thuyết này dành tặng Plato),
không xa hơn chỗ uốn khúc của đồ đạc, của bộ ga giường,
của những tủ chạn và những vườn rau,
các dì chẳng bao giờ quên những túi ướp hoa oải hương
để biến một kho lanh thành bãi cỏ.

Hiện thực cuộc đời,
giống như phía tối Mặt Trăng,
đã không thiếu đi những bí ẩn;
khi thời điểm lễ Giáng sinh đến gần,
cuộc sống trở thành thói quen thuần khiết
và sống tạm trong những hành lang,
tìm nơi trú ẩn trong những vali và túi xách.

Rồi khi ai đó qua đời - điều này xảy ra
cả trong gia đình chúng tôi, than ôi –
những dì tôi, ám ảnh
bởi hiện thực cái chết,
rốt cuộc đã quên đi hoa oải hương,
với thứ mùi điên cuồng nở rộ không ngừng
dưới một màn tuyết lớn.
Đừng làm điều gì, hãy ngồi đấy.
Và như tôi có, như tôi có,
những mùa đang xoắn quanh tôi như khói ,
tới tận cùng mặt đất và trở về vô thanh.

(Chuyển ngữ từ tiếng Ba Lan bởi Clare Cavanagh)

My Aunts
Adam Zagajewski

My Aunts - Adam Zagajewski

Always caught up in what they called
the practical side of life
(theory was for Plato),
up to their elbows in furniture, in bedding,
in cupboards and kitchen gardens,
they never neglected the lavender sachets
that turned a linen closet to a meadow.

The practical side of life,
like the Moon's unlighted face,
didn't lack for mysteries;
when Christmastime drew near,
life became pure praxis
and resided temporarily in hallways,
took refuge in suitcases and satchels.

And when somebody died--it happened
even in our family, alas--
my aunts, preoccupied
with death's practical side,
forgot at last about the lavender,
whose frantic scent bloomed selflessly
beneath a heavy snow of sheets.
Don't just do something, sit there.
And so I have, so I have,
the seasons curling around me like smoke,
Gone to the end of the earth and back without sound.

(source: http://plagiarist.com/poetry/4274/)

Thứ Sáu, 11 tháng 1, 2008

Fire-Adam Zagajewski

Lửa - Adam Zagajewski

Tôi hồ như là tên tiểu tư sản bình thường
tin tưởng tuyệt đối vào quyền tự do cá nhân, đối với tôi
từ “tự do” thật đơn giản, nó không có nghĩa
giai cấp riêng biệt nào đó mới được hưởng tự do.
Ngây thơ chính trị, với học vấn
trung bình (nguồn dưỡng chính là những khoảnh khắc
nhìn rõ ngắn ngủi), tôi nhớ đến
sức hấp dẫn bùng cháy của đám lửa làm nứt nẻ
những cặp môi của đám đông khô khát và đốt cháy
những cuốn sách và thiêu trụi vỏ bọc các thành phố. Tôi từng hát
những bài ca đó và tôi biết tuyệt vời thế nào
khi chạy đua với người khác, rồi, mình tôi,
với vị tro trong miệng, nghe được
giọng nói mỉa mai dối gạt và dàn hợp xướng đang gào
và khi chạm vào đầu tôi có thể cảm nhận
hộp sọ uốn vòng của đất nước tôi, cạnh cứng đơ của nó.

(Chuyển ngữ từ tiếng Ba Lan bởi Clare Cavanagh)

Fire - Adam Zagajewski

Probably I am an ordinary middle-class
believer in individual rights, the word
"freedom" is simple to me, it doesn't mean
the freedom of any class in particular.
Politically naive, with an average
education (brief moments of clear vision
are its main nourishment), I remember
the blazing appeal of that fire which parches
the lips of the thirsty crowd and burns
books and chars the skin of cities. I used to sing
those songs and I know how great it is
to run with others; later, by myself,
with the taste of ashes in my mouth, I heard
the lie's ironic voice and the choir screaming
and when I touched my head I could feel
the arched skull of my country, its hard edge.

(source: http://plagiarist.com/poetry/4273/)

Thứ Năm, 10 tháng 1, 2008

The Star Market-Marie Howe

Siêu thị Ngôi sao - Marie Howe

Ngày hôm qua những người Jesus yêu đang đi mua sắm ở Siêu thị Ngôi sao.
Một ông già với làn da màu chì đứng kế tôi tại quầy thanh toán
thở quá khó nhọc khiến tôi lùi lại vài bước.

Thậm chí sau cả đống túi ông mang nhưng ông vẫn đứng đó, thở nặng nề và
chúi mũi vào bàn tay. Yếu đuối, què quặt, tôi có thể chỉ vừa thấy chúng:
đang lê gót qua các lối đi, bốc mùi thối rữa, như thể Siêu thị Ngôi sao này

thông báo nghỉ một ngày để dọn dẹp, và tôi lang thang ở trong
với những thứ còn lại - sữa iu, thịt thiu –
đi tìm ngũ cốc và nước suối.

Jesus phải là một vị thánh, tôi độc thoại, rồi tìm chiếc xe mất tăm
trong bãi đỗ, trượt chân giữa những người sẽ được
đưa vào những căn phòng phía dưới bằng roi, những người trườn

ra khỏi hang hoặc bò lết tới các góc nhà tắm công cộng bằng tay
và chân để cầu xin lòng nhân từ.

Nếu ta chỉ chạm vào mép quần áo ông ấy, một người đàn bà nghĩ,
ta có thể chịu nổi vẻ mặt khi ông ấy quay đi?

(The New Yorker 14/1/2008 issue)

The Star Market-Marie Howe

The people Jesus loved were shopping at the Star Market yesterday.
An old lead-colored man standing next to me at the checkout
breathed so heavily I had to step back a few steps.

Even after his bags were packed he still stood, breathing hard and
hawking into his hand. The feeble, the lame, I could hardly look at them:
shuffling through the aisles, they smelled of decay, as if the Star Market

had declared a day off for the able-bodied, and I had wandered in
with the rest of them—sour milk, bad meat—
looking for cereal and spring water.

Jesus must have been a saint, I said to myself, looking for my lost car
in the parking lot later, stumbling among the people who would have
been lowered into rooms by ropes, who would have crept

out of caves or crawled from the corners of public baths on their hands
and knees begging for mercy.

If I touch only the hem of his garment, one woman thought,
could I bear the look on his face when he wheels around?

Vermeer's little girl - Adam Zagajewski

Thiếu nữ của Vermeer - Adam Zagajewski

Ôi nàng thiếu nữ của Vermeer, giờ đây nổi tiếng
ngắm nhìn tôi. Ngọc trai ngắm nhìn tôi.
Đôi môi nàng thiếu nữ của Vermeer
đỏ tươi, bóng ướt và tỏa sáng.

Ôi nàng thiếu nữ của Vermeer, ôi ngọc trai,
khăn xếp xanh côban: em hoàn toàn là ánh sáng
và anh được làm bằng bóng tối.
Ánh sáng nhìn xuống bóng tối
với vẻ độ lượng, hoặc giả xót thương.

(Chuyển ngữ từ tiếng Ba Lan bởi Clare Cavanaugh)

Vermeer's Little Girl - Adam Zagajewski

Vermeer's little girl, now famous
watches me. A pearl watches me.
The lips of Vermeer's little girl
are red, moist, and shining.

Oh Vermeer's little girl, oh pearl,
blue turban: you are all light
and I am made of shadow.
Light looks down on shadow
with forbearance, perhaps pity.

(nguồn: http://plagiarist.com/poetry/4277/)

Thứ Tư, 9 tháng 1, 2008

Self-Portrait-Adam Zagajewski

Chân dung tự hoạ - Adam Zagajewski

Giữa máy vi tính, bút chì, và máy chữ
nửa ngày trôi qua. Một ngày sẽ dài như nửa thế kỷ.
Tôi sống ở những thành phố xa lạ và thi thoảng kể lể
với những người xa lạ về những vấn đề xa lạ với tôi.
Tôi nghe khá nhiều nhạc: Bach, Mahler, Chopin, Shostakovich.
Tôi nhận ra có 3 yếu tố trong âm nhạc: yếu đuối, mạnh mẽ, và đớn đau.
Yếu tố thứ tư không có tên.
Tôi đọc các nhà thơ, còn sống và đã chết, họ dạy tôi
kiên trì, niềm tin, và kiêu hãnh. Tôi cố hiểu
những triết gia vĩ đại - nhưng thường chỉ bắt được
những mảnh rời tư tưởng quí giá của họ mà thôi.
Tôi thích tản bộ trên các khu phố Paris
và nhìn ngắm những người cũng thế, thôi thúc bởi đố kị,
giận dữ, ham muốn; lần theo đồng bạc cắc
chuyền từ tay người nọ sang tay người kia khi nó dần
mất đi hình tròn (mặt nghiêng của hoàng đế đã mòn hết).
Cạnh tôi cây cối chẳng biểu đạt điều gì
ngoài vẻ tuyệt mĩ thờ ơ xanh lục.
Những con chim đen tới lui trên các cánh đồng
kiên nhẫn đợi chờ như goá phụ Tây Ban Nha.
Tôi không còn trẻ nữa, nhưng ai đó khác luôn già hơn.
Tôi thích ngủ sâu, khi tôi ngừng tồn tại,
và cưỡi xe thật nhanh trên các con đường quê khi những cây dương và những ngôi nhà
tan rã như mây trong ngày nắng.
Thi thoảng trong bảo tàng các bức tranh nói với tôi
và trớ trêu thay đột nhiên biến mất.
Tôi ưa thích nhìn kĩ khuôn mặt vợ mình.
Mỗi Chúa nhật tôi gọi cho cha.
Mỗi tuần khác tôi gặp bè gặp bạn,
như thể minh chứng lòng thành thực của mình.
Đất nước tôi đã tự giải phóng khỏi một con quỉ. Tôi mong ước
lần giải phóng tiếp theo.
Tôi có thể giúp gì cho điều này? Tôi không biết.
Tôi thực sự không phải là đứa trẻ của đại dương,
như Antonio Machado từng viết về mình như thế,
mà là một đứa trẻ của khí trời, bạc hà và tiếng cello
và không theo mọi cách thế giới cao cấp
vắt chéo những con đường trong cuộc sống – tới nay –
vẫn thuộc về tôi.

(Chuyển ngữ từ tiếng Ba Lan bởi Clare Cavanagh)

Self-Portrait - Adam Zagajewski

Between the computer, a pencil, and a typewriter
half my day passes. One day it will be half a century.
I live in strange cities and sometimes talk
with strangers about matters strange to me.
I listen to music a lot: Bach, Mahler, Chopin, Shostakovich.
I see three elements in music: weakness, power, and pain.
The fourth has no name.
I read poets, living and dead, who teach me
tenacity, faith, and pride. I try to understand
the great philosophers--but usually catch just
scraps of their precious thoughts.
I like to take long walks on Paris streets
and watch my fellow creatures, quickened by envy,
anger, desire; to trace a silver coin
passing from hand to hand as it slowly
loses its round shape (the emperor's profile is erased).
Beside me trees expressing nothing
but a green, indifferent perfection.
Black birds pace the fields,
waiting patiently like Spanish widows.
I'm no longer young, but someone else is always older.
I like deep sleep, when I cease to exist,
and fast bike rides on country roads when poplars and houses
dissolve like cumuli on sunny days.
Sometimes in museums the paintings speak to me
and irony suddenly vanishes.
I love gazing at my wife's face.
Every Sunday I call my father.
Every other week I meet with friends,
thus proving my fidelity.
My country freed itself from one evil. I wish
another liberation would follow.
Could I help in this? I don't know.
I'm truly not a child of the ocean,
as Antonio Machado wrote about himself,
but a child of air, mint and cello
and not all the ways of the high world
cross paths with the life that--so far--
belongs to me.

(nguồn: http://plagiarist.com/poetry/4275/)

How Martin Luther King was dying-Slavko Jendričko

Martin Luther King đã hấp hối ra sao - Slavko Jendričko

Mẹ tôi
giữ loại sữa chua thiên đường
đầy hứa hẹn trong tủ lạnh.
Những con lợn hồi sinh trong băng.
Một nông dân bước vào chuồng.
Trong đôi ủng
ông cảm nhận máu và ruột ấm áp.
Máy bay trôi qua trên sân sau nhà ông.
Chẳng thể phát hiện
trên mặt ông
sự ưu tư nào
Martin Luther King:
Martin Luther King.


(Chuyển ngữ từ tiếng Croatia bởi Miloš Đurđević, trích từ thi tập Tatari / kopita, NXB Author's edition, Sisak, 1980, ISBN: 886.2-1)

How Martin Luther King Was Dying

My mother
keeps the promised yogurt
of paradise in the refrigerator.
Pigs resurrect in ice.
A peasant enters the pigsty.
In waders
he feels blood and warm guts.
Airplane flies above his backyard.
Not a sign of wander
could be seenon his face.
Martin Luther King:
Martin Luther King.

(source: http://croatia.poetryinternationalweb.org/piw_cms/cms/cms_module/index.php?obj_id=10744&x=1)

A house for stars-Toshio Nakae

Ngôi nhà dành tặng các vì sao - Toshio Nakae

Chẳng cần nhà thiết kế cổ điển hay kiến trúc sư tiền phong giúp đỡ, một ngôi nhà được xây đâu đó ở một góc bầu trời.
Chẳng cần âm thanh của búa hay máy trộn bê tông, một ngôi nhà đang được xây.
Chẳng cần hàng rào hay tường hay thậm chỉ cả đất, mọi thứ và chi phí chẳng tốn kém bao nhiêu.
Một khu vườn đêm bao la xơ xác. Một ngôi nhà không cần đất trống rỗng nhỏ nhoi. Chẳng có gì ngoài những trái thở dài kết tinh, không được chấp nhận, chẳng cần mái, chẳng cần cột, chẳng cần khung thép. Sự vô nghĩa lạnh lùng thật lạnh lùng.
Những tinh thể hình ngôi nhà của vô vàn tiếng thở dài run run. Qui hoạch nhưng chẳng cần đường xá, họ tạo nên thành phố.

Chẳng để sống trong ngôi nhà đó trong thành phố đó, chẳng để nghỉ ngơi trong ngôi nhà đó, ngoài giận giữ trong ngôi nhà đó, chỉ để giận giữ, cần có cuộc sống ở Hiroshima và Nagasaki. Cần có cuộc sống ở Auschwitz và Stalingrad.
Và lúc này đây, chẳng ai thăm viếng thành phố đó. Ngôi nhà đó. Ngôi nhà chỉ các vì sao ở, ngôi nhà dành tặng các vì sao, ngôi nhà dành tặng những tiếng thở dài nhân tính.
Sẽ bốc hơi trong giận giữ. Ngôi nhà đánh thức đúng lúc một ảnh ảo như là giấc mơ mờ nhạt, thật mờ nhạt xuất hiện ở tận cùng nỗi tuyệt vọng.

(Chuyển ngữ từ tiếng Nhật bởi William I. Elliott và Kazuo Kawamura, trích từ thi tập 20 no shi to chinnkonnka (Twenty Poems and Requiems), NXB Shichosha, Tokyo, 1963)

A HOUSE FOR STARS

Without the help of any classical designer or avant-garde architect, a house is built somewhere in a corner of the sky.
With no sound of a hammer and with no concrete mixer, a house is built.
Without a fence or walls and without even land, things and expenses are only lavishly wasted in the far distance.
A bare, boundless night garden. A tiny, empty, landless house. Nothing but the crystallized fruit of sighs, unapproved, without a roof, without pillars, without a steel frame. Cold, cold meaninglessness.
House-shaped crystals of countless trembling sighs. Set apart without roads, they constitute a city.

Not to live in that house in that city, not to rest in that house, but to get angry in that house, only to get angry, life was necessary in Hiroshima and Nagasaki. Life was necessary in Auschwitz and Stalingrad.
And yet, that city where no visitors are. That house. The house where only stars live, a house for stars, a house for human sighs.
It will evaporate in anger. A house that beautifully arouses an illusion just as a faint, faint dream does at the end of despair.

(nguồn: http://japan.poetryinternationalweb.org/piw_cms/cms/cms_module/index.php?obj_id=10724&x=1)

Thứ Ba, 8 tháng 1, 2008

A Kimono-Toshio Nakae

Kimono - Toshio Nakae

Tự cảm mình gắn với
kỳ quan bí hiểm nào đó,
em buộc vài sợi dây,
nhanh chóng thắt chặt dây lưng và ngắm nhìn trong gương dài.

Tự cảm mình gắn
với mối quan hệ rối bời nào đó,
em gập nhiều lần những nếp gấp nữ tính tâm lý
gắn kết với bổn phận người mẹ.

Em cuốn thân thể lạnh lùng và bỏng cháy của mình
với sự dịu dàng và ấm áp vô hạn,
khi mối quan hệ đàn ông-đàn bà và bốn mùa tuần hoàn
đang bỏ qua khoái lạc không đổi thay của người phụ nũ –

và em tìm thấy mình trong ngày xuân thơm ngát đó
khi chàng ôm em trong bộ kimono tay dài
cho em thấy những bông thuỷ tiên vàng trên dòng suối chảy.
Chàng dịu dàng ngợi ca cánh hoa hai mươi tuổi của em.

(Chuyển ngữ từ tiếng Nhật bởi William I. Elliott và Kazuo Kawamura, trích từ thi tập Tou Tou Soku Sei (Head to the East, Feet West), NXB Henshuu Koubou Noa, Osaka, 1984)

A KIMONO
Feeling myself tied to
some deep wonder,
I tie several strings,
fasten the obi tightly and look in the full-length mirror.

Feeling myself tied
with some bewildering bond,
I fold many times over the psychological folds of womanhood
which is linked to motherhood.

I wrap my cold and burning body
with infinite tenderness and warmth,
while the man-woman relationship and four-season cycle
have passed over the unchanging woman’s pleasure –

and I found myself on that day in the fragrance of spring
when he embraced me in my long-sleeved kimono
showing yellow daffodils along a running stream.
He gently praised my twenty-year-old petals.

(nguồn: http://japan.poetryinternationalweb.org/piw_cms/cms/cms_module/index.php?obj_id=10730&x=1)

Thứ Hai, 7 tháng 1, 2008

A Poet-Animal-Toshio Nakae

Một nhà thơ-thú vật - Toshio Nakae

Vì tôi là gã đàn ông từ lâu loài người đã bỏ rơi,
tôi sống trên mặt đất, trong tình thương loài chó cũng bị bỏ rơi như thế.
tôi sẽ chẳng bao giờ tiến hành chiến tranh vì công bằng hay chống lại quỷ dữ
và tôi hèn nhát nhắm chặt mắt để yêu.
Tôi sẵn lòng cười nhạo sự dâm ô và không mấy quan tâm cảnh nghèo khó,
Và đái ỉa bất kỳ đâu.

Bởi tôi là gã đàn ông từ lâu đã tuyệt vọng về loài người,
tôi ngập ngụa trong rác rưởi, những thứ vứt đi, những đồ vô dụng,
miệt thị mọi vật hữu ích.
Không phải thương gia hay người làm công, không phải nhà sản xuất,
không phải kẻ lường gạt, không phải kẻ nói dối, không phải kẻ trộm cắp, chỉ là một “Người tầm thường”,
Tôi giấu mình trong rác rưởi đồng nát và những thứ vô dụng như thế và tôi sống như mình thích trong ngôi nhà những linh hồn bỏ hoang.

(Chuyển ngữ từ tiếng Nhật bởi William I. Elliott và Kazuo Kawamura, trích từ thi tập Kitaijyou (A Gaseous State)NXB midnight press, Tokyo, 1994)

A POET-ANIMAL
Because I am a man long ago forsaken by human beings,
I live on earth, together with the hearts of dogs similarly abandoned.
I will never wage war either for justice or against evil
and I cowardly shut my eyes to love.
I willingly laugh at obscenity and worry not a bit over misery,
and live shitting and pissing everywhere.

Because I am a man who long ago despaired of human beings,
I live surrounded by trash, junk, things of no use,
despising all utility.
Being neither a merchant nor a salaried worker, nor a manufacturer,
that is, not a fraud, not a liar, not a thief, just a ‘Nobody’,
I hide among garbage and junk and such useless things and live as I like in a deserted house of the soul.

Chair-Toshio Nakae

Ghế - Toshio Nakae

Anh ngồi lên chiếc ghế
và Im lặng nhường anh
ngay khi anh đứng lên
Im lặng ngồi lại ghế

Hoàn toàn vô ngôn –
từ ngữ anh tan biến
trong bóng tối anh để lại đằng sau

(Chuyển ngữ từ tiếng Nhật bởi Takako Lento, trích trong thi tập Ansei no uta, NXB Matoba Shoten, Tokyo, 1957)

CHAIR
You sit in the chair
with Silence yielding to you
but you stand up right away
Silence sits back down in it

Utter no words —
your words vanish
into the darkness you have left behind

(nguồn: http://japan.poetryinternationalweb.org/piw_cms/cms/cms_module/index.php?obj_id=10774)

Chủ Nhật, 6 tháng 1, 2008

Lament-Toshio Nakae

Bi ca - Toshio Nakae

Hồi ấy tôi đã không biết tôi như thượng đế khi đang bắt và giết những con rệp,
khi tôi đang chạy vụt trong Thiên nhiên
khi tôi băng qua lối đi bí mật trên đồi, qua ngôi miếu trên đồng,
khuất dưới những chùm nho akebi, bước qua những nhành dương xỉ
qua cánh đồng lau lách, leo lên ngọn đồi nơi mặt trời chuyển động như trong phim và tôi thấy một con thuyền xa xa
khi tôi nhón chân qua một lùm cây muối, đuổi bắt ve sầu suốt ngày, leo trèo cây cối, ngắm nghía biển lá, ngước nhìn bầu trời và mặt trời toả nắng chói chang, rồi nhắm mắt, gối trán lên cây

khi tôi chạy trong chiều tà
khi rụt rè khi kiêu hãnh như tay đua ngựa,
luôn cô độc, với roi trong tay, với roi quấn eo
dù tôi từng nghe kể về bọn bắt cóc và lũ quỷ núi,
tôi tin vào đôi chân thần tốc, tin không ai sẽ níu lại một thằng nhóc hạnh phúc giản đơn,
khi chia sẻ những lo lắng của mẹ. Hồi ấy tôi đã không biết.

Hồi ấy tôi đã không biết khi xô đẩy và thúc khuỷu tay vào bụi
tre, bụi bơ gai và lùm dương xỉ dưới gốc thông và lùm quýt
ngơ ngẩn trước loài chim kì lạ, đuổi bắt bướm ma, đánh tan bầy bọ và mòng màu tía;
và sau rốt tôi phát hiện ao nước xanh lét
sậy leo kín mép, sóng dịu nhẹ theo làn gió
không có nhện nước bơi, không có bóng chim hét loanh quanh buổi chiều

Hồi ấy tôi đã không biết: ao nước lớn dưới chân đồi đã bị lấp một nửa
để làm đường; những con cá lềnh phềnh phơi bụng, một đồi trọc nhỏ mong manh
không ai có thể trả lời con đường dẫn tới đâu. Tất cả đều nói, “Không rõ”.
tôi đã không hỏi thêm gì nữa
tôi chơi trò đánh kiếm với lũ nhóc hàng xóm lớn hơn, vung vẩy những thanh tre vót làm kiếm.
Tôi hụt bước và ngã khỏi vách đá chiều hôm đó - tiếng ếch ương ồn ĩ làm sao

khi tôi lẻn ra ngoài cùng bơi sông với lũ nhóc. Phơi khô quần lót ướt đẫm của tôi
tôi ghì mông lên mặt xù xì bức tường đá cứng queo, hay úp mặt vào đuôi ngựa, nom thật buồn
khi một cô bé và tôi chơi trò bác sĩ, trong nhà kho
lúi húi bí mật cả nửa ngày, rồi cô bảo mẫu tìm thấy và bật cười khúc khích.
Hồi ấy tôi đã không biết,
trời ơi, tôi đã không biết.

Tôi đang cầu nguyện: Mong mọi người đều sống rất rất lâu
Người lớn, xe điện, và cư xá là những kì quan trong đôi mắt trẻ trung
thay vì kinh ngạc của tôi,
tôi nhớ mắt mình từng nháng lửa khi nói đến hi vọng
trong khu vườn
nơi tôi còn láu lỉnh bé con

Tôi đã từng nghi ngờ họ giống như tôi
Mọi người đều nói dối, nhưng tôi không giống họ
tôi không hiểu tại sao nhiều cách được chọn để nói
nhưng tôi không hỏi họ, bởi nếu một cách sai lầm
tôi biết chắc sẽ có thứ tốt hơn
trong những ngày đó -

Xưa kia tôi từng mong hạnh phúc cho tất cả
mỗi người sẽ nhận được sự phì nhiêu
của mặt đất này
Xưa kia tôi từng tin chiến tranh giờ sẽ qua
loài người sẽ ngợi ca hoà bình
tại đất nước này -

À, khi tôi ngu dại, không ai dạy tôi
rằng người lớn thật thù địch, rằng thế giới thật xấu xa
rằng con người có quá nhiều điều để mất. Chưa từng nói.
Giờ đây, cạn kiệt màu máu, anh núp vào bóng tối,
linh hồn băng giá của tôi!


(Chuyển ngữ từ tiếng Nhật bởi Takako Lento, trích từ tập Ansei no uta, NXB Matoba Shoten, Tokyo, 1957)

LAMENT

I did not know then when I was capturing and killing bugs like a god,
when I was scampering about in Nature
when I moved through a hidden passage in the hill, by a shrine in the field,
ducking under akebi vines, stepping on ferns
through a field of sedge, to come upon a hill where the sun moved like in the movies and I saw a ship sailing in the distance
when I tiptoed through a grove of sumac, chasing cicadas all day long, climbed onto a branch, looked over the sea of leaves, saw the sky and the brilliantly shining sun, and closed my eyes, pressing my forehead against the branch

when I ran through the dusk
timidly yet proudly like a jockey,
always alone, with a rope in one hand, with a basket tied to my waist
though I had been told of kidnappers and mountain ogres,
I had faith in my quick feet, trusting that no one would grab a simple happy kid,
while sharing my mother’s worries. I did not know then

I did not know then when I pushed and elbowed through the thickets
of bamboo grasses, butterburs and ferns under pines and citrus shrubs
surprising a peculiar bird, chasing black butterflies, swatting down swarms of purple beetles and gadflies;
and when I finally found a wan pond
where reeds stood on the water’s edge, quietly and subtly waving in the wind
where not a single water strider was swimming, not a thrush was around that afternoon

I did not know then: the big pond at the foothill was filled to half its size
to make a road; fish were floating belly up; a small feeble hill was being shaved down
no one could answer where the road led to. Everyone said, “No idea.”
I did not ask any more questions
I played at sword fighting with the bigger neighborhood boys, waving about bamboo sticks for swords.
I missed my step and fell off the cliff that evening — the frogs were making a lot of noise

when I snuck out to join them for a swim in the river. To get my soaked underwear dry
I pressed my behind against the bumpy face of the sun-baked stone wall, or lay face-down on horsetails, looking glum.
when a girl and I played doctor, got into a closet
did things in hiding for half a day, and the maid found us finally, and giggled.
I did not know then,
God, I did not know.

I was praying: May all people live for a long long time
Big people, streetcars, and buildings were wonders to my youthful eyes
in a place of surprise, I remembered that my eyes sparkled when I spoke of hope
in the garden
where I was an impish little kid

I had doubts about them being like me
People lied, but I was not like them
I did not understand why some paths were taken
but I did not question them; because if one failed
I knew there would surely be something better
in those days —

Once I wished for happiness for all people
that each would receive the plentyof this earth
Once I believed that war would now end
that the people would sing of peace
in this country —

Ah, when I was ignorant, no one taught me
that big people are so ugly, that the world is so foul
that humans have so much to lose. Never.
Now, drained of the color of blood, you crouch in the dark,
my frozen soul!

(nguồn: http://japan.poetryinternationalweb.org/piw_cms/cms/cms_module/index.php?obj_id=10707)

Night and fangs-Toshio Nakae

Đêm và răng nanh - Toshio Nakae

Đêm cắm những răng nanh vào Đất Mẹ
cắm đầu răng nhọn
vào lớp bùn ẩm
hoàn toàn lạnh giá

Tôi vuốt ve mặt đất
một cơn gió ấm áp kỳ lạ
những đầu răng nhọn hoắt khoan
sâu hơn
cũng cắm luôn vào đầu bạn, bạn, đang ngủ ngon,

Trái đất lửng lơ trong bầu trời rộng lớn
một con quỷ từ vũ trụ cổ xưa và xa xôi tới
để cắm những răng nanh sống -- máu anh
luân chuyển
trái đất xoay tròn

Đối mặt với ý thích bạo lực
của con quỷ xa xưa này
một tiếng thét chảy xuyên mọi mạch máu anh
vãi
rơi sự im lặng

(Trích từ thi tập Ansei no uta, NXB Matoba Shoten, Tokyo, 1957)


NIGHT AND FANGS
Night plants its fangs into Mother Earth
drives their pointed ends
into the wet earth
thoroughly chilled

I stroke the earth with my hands
a strangely warm wind
the pointed tips of the fangs drill in
deeper
your head also receives them, you, a sleeping person,

The earth floats in the great sky
a beast arrives from a distant and ancient universe
to drive living fangs -- your
blood circulates
the earth revolves

Faced with the violent will
of this time-honored beast
a scream courses through all of your blood vessels
splashe
sout of silence

(nguồn: http://japan.poetryinternationalweb.org/piw_cms/cms/cms_module/index.php?obj_id=10776&x=1)

Thứ Bảy, 5 tháng 1, 2008

Night and fish-Toshio Nakae

Đêm và cá - Toshio Nakae

Ban đêm loài cá có cảm giác
đang trôi tuột khỏi Trái đất này
những vẩy đuôi quẫy đạp không ngừng
khi nước bắt đầu cạn
đêm thanh bình quá
chúng tự biết tiếng quẫy nước ì ào
ai đó có thể sẽ nghe được
chong chong ngó nhìn suốt đêm tối
và tình cờ bắt gặp chàng nhện nước lẻ loi
đã trôi giạt từ nhiều năm trước, và
quên lối về.
Chàng
đang xoay tròn
như thể không chút nghĩ suy.

(Chuyển ngữ từ tiếng Nhật bởi Takako Lento, trích từ tập Time within a Fish, NXB Daiichi Bungei Sha, Kyoto, 1952)

NIGHT AND FISH

At night fish have a sense
that they are flowing out of the Earth
busily flapping their tailfins
as water becomes scarce
the night is so serene
they are self-conscious about their noisy splashing
lest they be heard by someone
they peer through the night
and come upon a single water-strider
who drifted out many years ago, and
lost his way home
he is circling about
as if he has no worries
(nguồn: http://japan.poetryinternationalweb.org/piw_cms/cms/cms_module/index.php?obj_id=10770)

Sounds-Toshio Nakae

Những tiếng động - Toshio Nakae

Những thứ êm dịu trở lại.
Về điều này, “Ai thế nhỉ?”, một từ hỏi
rồi, giơ hai tay,
chạy núp dần vào bóng tối.

Trong khoảng cách đó
thế giới đôi ta trở nên nhạt nhoà.
Trái tim chúng mình cận kề
và, chợt thốt,
“Ta sẽ làm gì đây?”,
cười bẽn lẽn.

(Chuyển ngữ từ tiếng Nhật bởi William I. Elliott và Kazuo Kawamura, trích từ tập Sakana no nakano jikan (Time within a Fish), NXB Daiichi Bungei Sha, Kyoto, 1952)

SOUNDS

Softly things turn around.
At this, “Who is it?”, a word asks
and, having raised both hands,
runs away into near darkness.

In that instant
the world of both of us becomes blurred.
We touch heart to heartand,
saying unawares,
“What shall we do?”,
timidly laugh.

(nguồn: http://japan.poetryinternationalweb.org/piw_cms/cms/cms_module/index.php?)obj_id=10720

Thứ Sáu, 4 tháng 1, 2008

This world-Toshio Nakae

Thế giới này - Toshio Nakae

Nước và nước
không lẫn được nhau.
Nước và nước
biết nhau rất rõ.
Cá và sậy
biết điều đó rất rõ.
Trong thế giới này, nói khác đi,
mọi loại nước đều sống.

Gió và gió
không lẫn được nhau.
Ngược chiều nhau, gió và gió
biết rõ điều khác biệt giữa chúng.
Chim và cây, do vậy,
gọi chúng bằng danh tính hoàn toàn riêng biệt.
Trong thế giới này, nói khác đi,
mọi loại gió đều sống.

Những con nước nhiều vô kể này
và những làn gió nhiều vô kể này
bao trùm địa cầu
và hăm hở bọc cuốn nó ngày càng sâu.
Chúng bao phủ địa cầu nhẹ nhàng và mạnh mẽ.
Và rồi, được sinh ra, như gà con,
những thứ nhiều vô kể, một số có, một số không, hình dạng.

[Chuyển ngữ từ tiếng Nhật bởi William I. Elliott và Kazuo Kawamura, trích từ tập Inaka Shihen (Poems of the Countryside), NXB Shichosha, Tokyo, 1997]

THIS WORLD
Water and water
do not mistake each other.
Water and water
know each other very well.
Fish and reeds
know that very well.
In this world, in other words,
all kinds of water live.

Wind and wind
do not mistake each other.
On the contrary, wind and wind
well know the difference between themselves.
Birds and trees, therefore,
call them by quite distinct names.
In this world, in other words,
all kinds of wind live.

These various countless waters
and various countless winds cover the earth
and eagerly enwrap it ever more deeply.
They envelop this earth softly and strongly.
And then, are born, like chickens,
various countless things, some with, some without, shape.

(nguồn: http://japan.poetryinternationalweb.org/piw_cms/cms/cms_module/index.php?obj_id=10738)

Silence-Toshio Nakae

Câm lặng - Toshio Nakae

Nếu tôi có thể sống mà không cần nói chuyện với ai,
và chỉ giao tiếp với thú vật và cây cối,
trái tim tôi thanh thản và lanh lẹ sẽ nhảy cỡn nhường nào .
Rồi tôi sẽ chia sẻ mọi điều với chúng,
và, thế giới vô cùng giàu có song cũng rất tầm thường này,
sẽ nhảy múa thoải mái trong vũ trụ và nô đùa trên những rặng núi và cánh đồng.
Tôi sẽ nói được cả ngày với cá,
thậm chí loài chim sẽ gửi tới chúng tôi những dấu vết bí mật,
khi cơn gió sẽ mơn trớn đôi tai hay đâm phập vào óc chúng tôi
và chỉ truyền đi những thanh âm thiết yếu.

Và nếu tôi có thể lặng câm hoàn toàn với mọi người,
tôi sẽ là chốn ẩn thân thoải mái của côn trùng và sâu bọ,
và tôi sẽ là những dãy núi và các con sông,
rắn chắc và êm đềm,
thi thoảng rền vang, bừng cháy và gào thét,
thi thoảng nấc và thốt “Whoosh!”.
Song, mặt khác, tôi sẽ tuyệt đối câm lặng,
và kiên trì bay qua vũ trụ như trái đất,
lặng lẽ già cỗi với thế giới này.

(Chuyển ngữ từ tiếng Nhật bởi William I. Elliott và Kazuo Kawamura, trích từ tập Nashi no tsubute no (No Response),NXB midnight press, Tokyo, 1995)
SILENCE
If I could live without speaking to anyone,
and only communing with animals and plants,
how serenely and agilely my heart would frisk about.
I would then share everything with them,
and, as infinitely rich and trivial as the world,
would dance in space airily and gambol over mountains and fields.
I’d be on speaking terms with fishes all day long,
even birds would send us their secret signs,
while the wind would tickle our ears or spear our brains
and convey only the necessary.

And if I could remain completely silent with everyone,
I would be a dwelling place for insects and worms to inhabit freely,
and I’d be mountains and rivers,
solidifying and flowing,
sometimes thundering, burning and roaring,
sometimes hiccupping and saying ‘Whoosh!’.
On the other hand, however, I would be utterly silent,
and end up in flying through space like the earth,
silently growing old with the world.

(nguồn: http://japan.poetryinternationalweb.org/piw_cms/cms/cms_module/index.php?obj_id=10736)

Evening-Toshio Nakae

Buổi tối - Toshio Nakae

Không biết làm sao
----
Tôi đã định nói
“Tình cờ”
song lại chẳng thốt nên lời
Ai đó
phải nghe thấy nó
Anh ta nhặt được “Tình cờ”
ngay sau tôi
và tiếp tục nói chuyện
mà chẳng hề quan tâm đến tôi

Tôi mê mụ đi
giống đứa trẻ bị làm nhục
bởi người không mong đợi này
mà chẳng cần nguyên cớ
cũng không thể trách cứ anh ta
tôi cảm thấy như thể mình không còn tồn tại
trong căn phòng này vào thời điểm đó

(Chuyển ngữ từ tiếng Nhật bởi Takako Lento, trích từ tập "Time within a Fish", NXB Daiichi Bungei Sha, Kyoto, 1952

EVENING

Somehow
----
I was about to say
‘Incidentally’
but haven’t said anything
Someone
must have heard it
He picks up on ‘Incidentally’
right away behind me
and goes on talking
paying no attention to me

I am befuddled
like a kid who’s been snubbed
by this unexpected person
with no cause
yet unable to reproach him
I feel as if I no longer exist
in the room at that moment

(nguồn: http://japan.poetryinternationalweb.org/piw_cms/cms/cms_module/index.php?obj_id=10772&x=1)

Thứ Năm, 3 tháng 1, 2008

Words-Toshio Nakae

Ngôn từ - Toshio Nakae
Thì thầm từ “im lặng” mà không thực sự biết từ đó. Ném đi một cách không nghĩ suy từ “chim”. Nhìn vào những từ “biển”, “đàn bà” và “cá” một cách vô nghĩa. Sử dụng những từ như “bè bạn”, “con người” và “cô đơn” một cách không lưỡng lự. Chỉ có người vô sỉ mới làm điều đó.
Chúng ta có thể không còn cứu vớt được những từ “tình yêu” và “cái chết”. Những từ “chạy”, “nhảy” và “đi” đã cực kỳ mệt mỏi rồi, giống như những người lính bị thương.
Chúng ta nên ngay lập tức tẩy xoá mọi trang trong từ điển. Chúng ta nên cầm cố những cuốn sách trong dĩ vãng. Vả chăng, cũng cần thiết cho chúng ta để quên đi ngôn từ, đồng thời chúng ta sẽ không được đặt tên hay được gọi là những người văn minh. Chúng ta sẽ là những kẻ rợ mọi. Và chúng ta sẽ, mỗi chúng ta, đồng tồn tại với mọi vật và hành vi.
Chỉ đến thời cháu chắt chúng ta mới cho phép mọi người được thốt từng từ một, giống như họ xây nhà.
Một từ mà chỉ được diễn tả bằng điệu bộ, những từ đơn giản nhất và âm nhạc chi phối cuộc sống chúng ta – hãy tưởng tượng đến một nơi tôi đang nói cuống cuồng như gã lên cơn sốt, và thường xuyên chối bỏ biểu lộ bằng những ngôn từ đúng đắn.
(Chuyển ngữ từ tiếng Nhật bởi William I. Elliott và Kazuo Kawamura, trích trong tập Kyohi (Refusal), NXB Bundosha, Kyoto, 1959)
WORDS
To murmur the word ‘silence’ without really knowing the word. To throw away thoughtlessly the word ‘bird’. To look at the words ‘sea’, ‘woman’ and ‘fish’ meaninglessly. To use such words as ‘friends’, ‘humans’ and ‘solitude’ unhesitatingly. Only a shameless person would do this kind of thing.
We can no longer heal the words ‘love’ and ‘death.’ The words ‘run’, ‘jump’ and ‘walk’ are extremely exhausted, like wounded soldiers.
We should at once blank out every page of the dictionary. We should put away books in past ages. Moreover, it is essential for us to forget words; otherwise we would not be entitled to be called civilized people. We would be barbarians. And we should, each of us, co-exist with things and actions.
Only in the age of our great grandchildren would we allow people to utter words one by one, just as they would build houses.
A world where only mime, the simplest words and music govern our lives — imagining such a place I am already speaking deliriously like a feverish patient, and often refusing to testify in proper words.

Thứ Tư, 2 tháng 1, 2008

A love song-Toshio Nakae

Một bài tình ca - Toshio Nakae

Tôi muốn ăn người đàn bà này:
ăn tất cả nàng,
không cần đường,
không cần nấu nướng.
Tôi muốn ăn tươi nuốt sống nàng.

Tôi muốn cắt cổ người đàn bà này:
cắt rời chân tay nàng,
cắt bỏ ngực nàng,
nhổ trụi tóc nàng.
Tôi muốn giữ nàng lại với tôi.

Tôi muốn ăn bài hát người đàn bà này:
ăn những cánh đồng lúa mì của nàng,
ăn những rặng cây của nàng,
ăn những hoa cải dầu của nàng.
Tôi muốn ăn mùa xuân của nàng.

Tôi muốn giết chết tình nhân người đàn bà này.
Tôi muốn tống khứ
con cá đang bơi trong bụng người đàn bà này, những con trùng bọ đang trườn bò ở đó, những con rắn trơn tuột, những con tê giác lười nhác.
Tôi muốn để người đàn bà này tiếp tục sống.
Tôi muốn tạo mặt trời trong người đàn bà này.

Tôi muốn nhấp nhám từng ngụm linh hồn người đàn bà này:
bắt những đám mây của nàng,
bắt bầu trời của nàng,
bắt mặt trăng của nàng.
Tôi muốn bắt những vì tinh tú của nàng.

Tôi muốn được cùng ở với người đàn bà này.
Tôi muốn bảo vệ nàng.
Tôi muốn ăn bố nàng, mẹ nàng, anh chị em gái nàng
và cả Thượng đế luôn, cuối cùng tôi không bao giờ có thể ngấu nghiến trọn vẹn
cho dù tôi đã cố thế nào.

(Chuyển ngữ từ tiếng Nhật bởi William I. Elliott và Kazuo Kawamura, trích trong tập Chinmoku no hoshi no ue de (On a Silent Star), NXB Uchu Jidaisha, Nagoya, 1965)

A LOVE SONG

I’d like to eat this woman:
eat all of her,
without sugar,
without cooking.
I’d like to eat her raw and alive.

I’d like to cut this woman’s neck:
cut off her arms and legs,
remove her breasts,
pull out her hair.
I’d like to keep her to myself.

I’d like to eat this woman’s song:
eat her wheat fields,
eat her trees,
eat her rape blossoms.
I’d like to eat her spring.

I’d like to kill this woman’s lover.
I’d like to expel the fish swimming in this woman’s belly, the insects crawling there, slithering snakes, lazing rhinoceroses.
I’d like to let this woman keep on living.
I’d like to call the sun into this woman.

I’d like to sip this woman’s soul:
catch her clouds,
catch her sky,
catch her moon.
I’d like to catch her stars.

I’d like to be with this woman.
I’d like to protect her.
I’d like to eat her father, mother, brother, sister
and that god, too, that I would finally never be able to devour completely
no matter how hard I tried.

Vocabulary líst chapter I-Toshio Nakae

Danh sách từ vựng chương 1 - Toshio Nakae

Lễ nghi. Hội họp.
Rất.
Gã tồi.
Ràng buộc.
Môi. Miệng. Nguyền rủa.
Nảy sinh.
Đũng quần. Chân. Bóng.
Hẹp.
Sân trong.
Nợ.
Bầu trời kia.
Thời tiết xấu.
Trời nắng.
Mưa rơi.
Gió thổi.
Tuyết nở.
Tất cả các người.
Cay đắng.
Ngón trỏ.
Đợi chờ.
Ngón chân.
Dấu chân.
Ngụ cư. Dừng lại.
Và anh?
Dầu.
Tên anh?
Muỗi.
Sàn nhà.
Rìu.
Ngày kia.
Lò hấp.
Khoảng trống nuôi cá. Các tầng dưới.
Mẹ.
Mặt trời.
Gạo. Bài hát.
Xanh.
Thần kinh.
Hươu đực.
Chế tạo. Khâu vá.
Cá. Cư xử. Sông.
Dạy.
Kẻ thù.
Rau.
Thang.
Tiền.
Xin chào.
Mù tạc.
Tối.
Chỉ.
Máu.
Đêm. Màu.
Cửa sổ.
Gà mái.
Chồng.
Đang yêu.
Con trai.
Lò sưởi.
Con đường.
Lá.
Mông. Đầu gối.
Nuôi dưỡng.
Nước.
Ngả lưng.
Đọc. Ngã. Ngốc.
Bò cái.
Thích.
Len. Vải áo chẽn nữ.
Chim.
Sấm.
Bụng.
Hành.
Dưa chuột. Bí ngô.
Dì già. Thím trẻ.
Người lao động.
Thân thể.
Hồ.
Mũi. Khỉ đột.
Cá.
Gia vị.
Giống đực.
Đánh.
Chết.
Mây.
Đàn bà. Vợ.
Mồm. mặt.
Đồi.
Gót chân.
Ong.
Thuyền nhỏ.
Cháu trai.
Cháu gái.
Cricket.
Bữa sáng.
Mũi. Hòn đá.
Bà.
Đầu.
Nhảy. Yêu.
Vòng cổ.
Quê nhà.
Xanh.
Muối. Cát.
Dầu lửa. Ăn! Uống!
Khoai tây.
Ngon.
Hạnh phúc.
Rìu. Ai. Cây.
Thánh đường.
Eo.
Chó.
Từ từ.
Viết.
Máu,
Mang nó đi!
Sắt. Đồ ngũ kim.
Quảng trường thị trấn.
Chất lỏng.
Đầu. Đầu.
Mặt trăng.
Cá.
Trần nhà.
Bùng nổ.
Ngủ.
Ngựa.
Trái cây.
Chuyện.
Đi.
Nói.
Bẩn.
Vàng.
Ăn. Uống.
Chơi.
Con cua.
Con hươu.
Ban ngày. Tay.
Xin chào.
Từ đâu.
Này. Ở đây. Kia.
Hôm nay.
Đây.
Tiêm.
Thượng đế.
Rời bỏ.
Đi!
Giày.
Rắn độc.
Ô liu.
Nóng. Nhà tù.
Mưa và bão.
Con gái.
Thác.
Lưỡi.
Mùa.
Quần áo. Vải.
Ngôn từ.
Đào.
Định mệnh.
Đen.
Nghi vấn. Móng.
Cửa.
Ngực.
Pháo đài.
Miếng thịt này.
Đến.
Hôm nay.
Kết thúc.
Tất cả.
Lợn. Lừa.
Nô lệ.
Xinh.
Rệp. Rệp. Rệp.
Cây. Tiếng nói.
Cổ họng.
Lời nguyền.
Bơ. Gôm. Bơ.
Bán.
Trái tim.
Mí mắt.
Tóc.
Mông. Lá.
Lò sưởi.
Kẻ trộm.
Bằng bánh mì. Ria.
Khờ dại.
Bác sĩ. Rễ.
Cây lựu.
Bạn.
Nói dối.
Thuốc.
Răng.
Nhìn.
Chạy.
Thánh đường.
Trắng.
Ngày và đêm.
Bán. Miếu.
Mặt trăng. Cặc.
Chòm sao Sư tử.
Cằm.
Mỗi ngày. Biểu đồ.
Người trồng cây.
Sớm. Sáng.
Du lịch.
Anh em.
Vợ.
Giường.
Trứng.
Gió.
Ông già.
Gió.
Trà.
Trách mắng. Cho phép.
Bướu.
Cà rốt. Rau chân vịt.
Gia nhân.
Người làm thuê.
Vâng. Điều đó đúng.
Bố. Ngồi.
Chợ. Cỏ.
Tồi.
Lũ.
Làm. Nhận.
Bố.
Bão.
Thành trì.
Thì hiện tại.
Bay đi. Vòi nước.
Chung cuộc.
Không khí. To lớn.
Cũ.
Mới.
Nhiều.
Làng.
Đi bộ. Đi.
Thỉnh thoảng. Hiếm khi.
Đột nhiên.
Quay lại!.
Quá khứ hoàn thành.
Ông.
Này.
Quỷ.
Cày.
Khoái lạc.
Nhạc. Hát.
Thế giới.
Khoai tây. Nội địa.
Gương. Xuất. Xuất.
Chiến tranh. Thần chết.
Ngái ngủ. Thần chết.
Khiêu khích. Thần chết.
Lắng nghe. Đã nghe.
Im lặng.
Danh tính.
Chạm trán.
Ung thư.
Đá. Đồi. Đồi. Đồi.
Nước mắt.
Lửa. Đom đóm.
Ẩn náu.
Quao. Quo. Quaoo.
Tất cả đều phù phiếm.
Ya!

(Chuyển ngữ từ tiếng Nhật bởi Yasuhiro Yotsumoto trích từ Nakae Toshio Goishuh (Toshio Nakae Vocabulary List), NXB Okada Shoten, Gifu, 1969)

(nguồn: http://japan.poetryinternationalweb.org/piw_cms/cms/cms_module/index.php?obj_id=10728&x=1)

Thứ Ba, 1 tháng 1, 2008

Perfect - Bei Dao

Hoàn hảo -Bắc Đảo

vào cuối một ngày hoàn hảo
những con người đơn giản kia kiếm tìm tình yêu
bỏ lại những vết sẹo lúc chiều tà

đó phải là một giấc ngủ hoàn hảo
trong khi các thiên thần săn sóc một vài
ân sủng nở rộ

khi tội ác hoàn hảo này xảy ra
những đồng hồ sẽ đúng giờ
những con tàu sẽ khởi hành

một ngọn lửa hoàn hảo màu hổ phách
những vị khách chiến tranh
tụ tập quanh sưởi ấm

khán đài lặng im, mặt trăng hoàn hảo đang mọc
tay dược sĩ đang chuẩn bị
thứ độc dược tuyệt đối của thời gian

(Chuyển ngữ từ tiếng Trung bởi David Hinton và Yanbing Chen từ tập From: Landscape Over Zero)

Perfect

at the end of a perfect day
those simple people looking for lovel
eft scars on twilight

there must be a perfect sleep
in which angels tend certain
blossoming privileges

when the perfect crime happens
clocks will be on time
trains will start moving

a perfect flame in amber
war’s guests
gather around it keeping warm

stage hushed, perfect moon rising
the pharmacist is preparing
a total poison of time

(nguồn: http://china.poetryinternationalweb.org/piw_cms/cms/cms_module/index.php?obj_id=990&x=1)

13-Toshio Nakae

13 - Toshio Nakae

Những bài thơ của tôi
gần như lấy trộm từ các bạn;
lấy trộm từ mặt trời,
lấy trộm từ cơn gió,
lấy trộm từ mặt đất,
lấy trộm từ biển khơi.

Tôi cũng lấy trộm từ thơ các bạn,
những con người trần thế;
từ những con phố của bạn,
từ những căn phòng của bạn,
và, trên tất cả, tôi lấy thứ gì đó từ cơ thể và trí óc các bạn
và chia sẻ nó.

Nếu có thể,
tôi cũng sẽ để bạn lấy trộm tôi,
lấy trộm cuộc sống tôi
những thứ thuộc về không ai biết của ai.
Không ai có thể sở hữu được cả cơ thể hay trái tim chúng ta,
bởi chúng ta là tài sản chung!

Thậm chí ngôn từ không thể bị sở hữu
hay chúng không phải là tài sản cá nhân.
Tất cả những thứ đó đều là tài sản chung
của hàng trăm triệu vì tinh tú,
dù bạn nghĩ
bạn thuộc về chính bạn.

(trích từ tập Shuukousha tachi (People Launching Out on their First Voyage), NXB Shigakusha, Tokyo, 1987
Chuyển ngữ từ tiếng Nhật bởi William I. Elliott và Kazuo Kawamura)

13
My poems are almost stolen from you;
stolen from the sun,
stolen from the wind,
stolen from the ground,
stolen from the sea.

I have stolen from your poems, too,
Earthlings;
from your streets,
from your rooms,
and, above all, I take something from your body and mind
and share it.

If possible,
I’d like you, too, to steal me,
steal my life
which belongs no one knows to whom.
No one can privatize either our body or our heart,
because we are common property!

Even words cannot be privatized
nor are they private possessions.
All sorts of things are the common property
of hundreds of millions of stars,
although you think
you are on your own.

(nguồn: http://japan.poetryinternationalweb.org/piw_cms/cms/cms_module/index.php?obj_id=10732&x=1)

Try To Praise The Mutilated World-Adam Zagajewski

Hãy cố ngợi ca thế giới méo mó này - Adam Zagajewski

Hãy cố ngợi ca thế giới méo mó này.
Hãy nhớ những ngày dài tháng Sáu,
và những quả dâu tây dại, những hớp rượu, sương.
Những cây tầm ma lớn mau trong trật tự
những ấp trại bỏ hoang của những kẻ lưu đày.
Em cần ngợi ca thế giới méo mó này.
Em nhìn thấy những du thuyền và tàu biển sang trọng;
một trong số chúng đã có hành trình dài phía trước,
trong khi lãng quên mặn mòi đã chờ kẻ khác.
Em nhìn thấy những người tị nạn chẳng đi tới đâu,
em nghe thấy những tên đao phủ hân hoan ca hát.
Em nên ngợi ca thế giới méo mó này.
Hãy nhớ những thời khắc khi chúng ta bên nhau
trong căn phòng trắng với tấm rèm đu đưa.
Hãy nghĩ về buổi hoà nhạc nơi âm nhạc bừng sáng.
Em hái quả đầu trong công viên vào mùa thu
và lá cây xoáy lượn trên mặt đất mấp mô.
Hãy ngợi ca thế giới méo mó này
và chiếc lông xám mà chim hét để rơi,
và ánh sáng dịu dàng tản mát và biến mất
rồi trở lại.

Chuyển ngữ từ tiếng Ba Lan bởi Clare Cavanagh

(nguồn: http://plagiarist.com/poetry/4276/)